Đêm trao giải Grammy 2003, Eminem là một trong những nghệ sĩ tham gia biểu diễn cho chương trình. Năm đấy anh ở đúng đỉnh cao sự nghiệp với bản hit Lose Yourself thần thánh.
Câu intro bằng piano nhẹ nhàng tiếp nối bằng câu riff guitar điện cực đặc trưng của Jeff Bass - tay đồng sản xuất, chính là nguồn lửa cho Eminem sáng tác một trong những bài rap hay nhất của anh.
Cứ tưởng bản ghi âm studio như thế đã là hoàn hảo lắm rồi thì buổi biểu diễn tại Grammy hôm đấy, Eminem có hẳn một ban nhạc đánh live đằng sau. Tôi thực sự há hốc mồm vì phần nhạc nền làm cho bài Lose Yourself hay một cách hoàn hảo theo một cách khác.
Nếu như với tôi, nhạc rap nghe đĩa thì hay nhưng xem diễn live mà bật beat đằng sau hoặc chỉ có ông DJ thì cũng khá tẻ. Vậy mà chỉ cần nhạc cụ sống đánh đằng sau tự dưng làm buổi biểu diễn và âm thanh sống động và đầy năng lượng hẳn.
Tiếng trống mà tay trống hôm đó đánh khác trống điện tử vì không dùng kick drum dồn dập. Nó có xen kẽ tiếng gõ trên snare và cách đảo nhịp nghe ngẫu hứng rất sướng. Đã thế khúc cuối bài là đổi tông hoàn toàn với phần guitar điện rè đặc mạnh mẽ càng khiến phần rap “you only get one shot do not miss your chance to blow” càng hừng hực hơn.
Từ lúc ấy tôi mới biết đến The Roots - ban nhạc hip hop huyền thoại đã chơi cho Eminem ngày hôm đó.
*****
Như duyên số sắp đặt, có ai ngờ đứa “mọt sách” như Ahmir “Questlove” Thompson tình cờ gặp “kẻ nổi loạn” Tariq “Black Thought” Trotter ở trường trung học khi tay này bị ông bảo vệ trường bắt vì tội máy mó một con bé trong nhà vệ sinh ngay tuần đầu nhập học. Và rồi sau đó hai tay này trở thành bạn thân và sáng lập ban nhạc The Roots từ cuối thập niên 80 vì một đam mê chung là nhạc hip hop.
Ngoại trừ hai thành viên sáng lập này, các thành viên còn lại trong band đều thay đổi trong suốt thời gian đó đến giờ. Nhưng điều kỳ lạ là chất lượng của tất cả 11 studio album của The Roots đều ổn định ở mức độ xuất sắc.
Để duy trì được điều đó, công lớn phải kể đến cái tai âm nhạc nhạy bén của Questlove và khả năng chỉ đạo nghệ thuật của anh cho cả ban nhạc. Âu cũng là nhờ Questlove sinh ra trong con nhà nòi, tập trống từ năm lên 3 tuổi và tham gia ban nhạc jazz của cha anh từ năm còn học lớp 1. Mặc cho sự gắn bó về âm nhạc từ bé với người cha, đặc biệt khi ông đã dạy dỗ anh đến nơi đến chốn, Questlove lớn lên vẫn có khoảng cách với ông. Chỉ bởi vì hai cái nhìn khác biệt về nhạc hip hop. Với cha của anh, rap chỉ là tiếng ồn, không hơn không kém.
Với vai trò thủ lĩnh của The Roots, Questlove đầu tiên đặt ra định hướng nhạc jazz và neo soul để phát huy hết tài năng của từng thành viên chơi các nhạc cụ khác nhau: từ bộ gõ, bass, guitar điện, keyboard đến saxophone và chiếc kèn tuba to oành.
Tiếp theo là kiểm soát sự phối hợp của cả band nhiều khi lên đến quân số 12 người. Đông vậy nên Questlove phải bắt chước cách lĩnh xướng của cha anh. Nhưng thay vì phạt tiền như ông vẫn làm với ban nhạc của ông, thì anh đặt cạnh trống snare của mình một cái trống phụ ở bên trái với âm thanh khác để gõ bất kỳ khi nào một thành viên trong band mắc lỗi trong buổi live show.
Với khán giả ở dưới, cả khi không ai nhận ra những lỗi mắc phải thì Questlove thính tai đến mức anh phải đập cái trống “nhắc lỗi” đến vài chục lần là chuyện thường.
Ấy vậy mà sự không hoàn hảo của con người trong chơi nhạc mới là cái hồn, khác với nhạc hip hop thông thường trên nền beat sản xuất sẵn. Từng tiếng gõ trong nhịp điệu có thể lệch một tích tắc hay âm lượng không giống nhau của một nhạc cụ cho cùng một đoạn lặp đi chăng nữa, lại là sức hút mãnh liệt của nhạc sống.
Nếu xem phần biểu diễn của The Roots ở trên tại Philadelphia mới thấy màu sắc âm nhạc sống động đến thế nào. Một sự phối hợp nhịp nhàng giữa bộ sậu các thành viên, lúc dồn tổng lực, lúc lắng đọng với vài nhạc cụ.
Mà đã là band chuyên nghiệp chơi live thì những màn solo là không thể thiếu:
Với Questlove, cách đánh nhịp hip hop với ngẫu hứng của jazz làm sự sáng tạo được đẩy cao khi sự lặp lại trong nhịp điệu không nhiều. Ở đây tốc độ không quan trọng mà âm thanh phải hay. Nếu nghe màn solo của Questlove trên dàn trống và Frank Knuckles trên bộ gõ là thấy hai anh rất chú tâm về âm lượng và tiếng trống không bị thừa và hơn cả là sự ngẫu hứng. Xem khúc solo này mới hiểu vì sao Questlove được đứng ở vị trí thứ 54 trong hàng các anh tài đánh trống vĩ đại nhất mọi thời đại của tạp chí Rolling Stone, không kém gì mấy cao thủ chơi nhạc rock, blues hay jazz.
Rồi các nhạc thủ khác đều lần lượt được trình diễn màn solo của họ. Captain Kirk với độ tinh tế trong kiểm soát âm lượng và âm sắc quá chắc tay trên chiếc đàn guitar. Màn solo bass của Leonard “Hub” Hubbard trong bản diễn live bài The Next Movement và dĩ nhiên không thể thiếu solo keyboard hay kể cả kèn tuba to uỳnh mà Damon Bryson phải phồng ma trợn má thổi.
Chả khác gì một show nhạc của một band nhạc rock nào cả và Questlove quyết tâm duy trì số lượng thành viên trong band lớn đến như vậy. Chính sự cồng kềnh như thế mà The Roots cũng gặp khó khăn trong việc đi tour. Bù lại, để có được đồng ra đồng vào duy trì ban nhạc, The Roots nay trở thành ban nhạc cây nhà lá vườn cho show của Jimmy Fallon, giúp cho show này trở nên hấp dẫn và màu sắc hơn hẳn. Trong lúc rảnh rỗi, cả band lại jam với nhau để tìm cảm hứng cho những project nhạc mới.
Thế nãy giờ nói đến nhạc hip hop mà không nói đến rap thì quả nhiên thiếu sót. Black Thought dĩ nhiên vì thế là nhân tố cực quan trọng của The Roots.
Black Thought không đơn thuần là một tay rapper. Giống như một “ca sĩ” chính trong một ban nhạc rock, Black Thought luyện được kỹ thuật chuyền hơi mà những người chơi nhạc cụ hơi như harmonica phải luyện. Kỹ thuật này cho phép anh có thể xả một tràng rap dài bằng cách hít vào bằng mũi và dùng cơ má để đẩy hơi ra, đồng thời có thể hít thêm hơi vào đầy phổi qua đường mũi. Nhờ vậy phần flow nhịp điệu của Black Thought nghe khoẻ và liền mạch. Anh kiểm soát nhịp điệu theo cách lúc nhanh, lúc chậm và thậm chí có lúc nhồi nhét nhiều từ liền với cùng âm vần nghe rất kêu tai.
Lấy ví dụ đoạn verse thứ hai của bài The Next Movement ở album Things Fall Apart, Black Thought gieo một tràng vần đa âm kéo dài nhiều khuông nhạc liền:
“Word up, the formation of WORDS TO FIT
That's what I usually disTURB YOU WITH
A lot of rappers never HEARD OF THIS
Or know HALF the time IT IS
You DOUBT the ILLA-FIFTH, what could you ACCOMPLISH?
Whether they skywriting your name, or you ANONYMOUS
You be SPEECHLESS, with stinging SINUSES
The Roots royal HIGHNESSES through your MONITORS
I tilt my crown, then blow down a DIAMOND KISS
You need to buy a CD and stop REWINDIN THIS
I'm the FINALIST, shinin like a rugged AMETHYST
And at your music conference, I'm the PANELIST
Listen close to my poetry, I EXAMINE THIS
Like an ANALYST, to see if you can HANDLE THIS”
Có những từ như “monitors” nhìn lệch hẳn với đám “-uh -is” như trên mà Black Thought vẫn rap thành cùng vần được. Đấy không phải là ăn gian, mà là uốn âm giỏi, như một ca sĩ vậy. Đã thế ngay sau đoạn này anh đổi tràng flow từ đều đặn thành giật cục khi chuyển sang chuỗi vần khác, ngẫu hứng và biến tấu như cách Questlove vẫn hay đảo nhịp vậy. Giọng Black Thought có lúc lên lúc xuống theo cảm xúc.
Chính vì thế, tiếng rap của Black Thought đóng góp vào như một nhạc cụ trong ban nhạc và anh cố tình dùng giọng hát của mình làm nên sự hoà hợp và tính “âm nhạc” của The Roots.
Nhưng không vì thế mà phần rap của Black Thought phải hy sinh về mặt nội dung.
Ngay ví dụ ở đoạn rap trên, Black Thought - như bao rapper khác vẫn hay làm, tự hào với trình độ emcee của mình, ăn đứt những kẻ khác bằng những từ rất đắt như “diamond kiss” hay “amethyst”. Hoặc lấy nguyên album kinh điển Undun ra, một concept album mà Black Thought và ban nhạc kể một câu chuyện xuyên suốt về cuộc đời bi kịch của nhân vật tên Redford Stevens vật lộn trong sự nghèo khó theo một TRÌNH TỰ NGƯỢC.
Giữ vững một chủ đề trong cả một album đã khó, lại còn theo một dòng câu truyện ở trình tự ngược lại càng gây tò mò hơn, tương tự như bộ phim Memento của Christopher Nolan vậy.
Điều làm các fan của dòng nhạc hip hop nhức nhối là Black Thought hầu như không được đánh giá đúng mực. Vị trí số 34 các rapper giỏi nhất mọi thời đại của tạp chí The Source không xứng đáng với tài năng của anh. Chỉ phải cái là, chính Black Thought lựa chọn cách của anh như vậy.
Anh hoàn toàn không có ý định bon chen để trở thành tâm điểm của ban nhạc The Roots. Black Thought hoàn toàn có quyền lôi chuyện tuổi thơ dữ dội của mình vào lời rap như nhiều rapper khác vẫn hay khoe khoang.
Với hoàn cảnh cuộc đời đối nghịch với Questlove, Black Thought không may mắn khi mất cha từ năm 1 tuổi do sự trả thù giữa các băng đảng. Người anh trai ra tù vào tội suốt gần như cả đời người. Bạn bè anh kẻ không bị bắt giam thì cũng bị giết trên đường phố. Và đến khi anh vào trường trung học, mẹ anh bị một kẻ lạ mặt giết hại một cách dã man.
Thay vào đó, anh chọn việc đứng hoà mình trong cả ban nhạc, để đóng góp cho mục tiêu cao cả nhất: chất lượng âm nhạc.
Nhìn lại cái ngày mà Questlove và Black Thought quen nhau một cách tình cờ, mặc cho sự trái ngược về tính cách và gia cảnh, nhưng điểm chung về đam mê với nhạc hip hop đã kéo họ lại với nhau.
Quan trọng hơn, thành công của The Roots đã giúp cứu rỗi cuộc đời của Black Thought cũng như mang lại cho Questlove một mục tiêu cao cả - chứng tỏ với người cha rằng “hip hop không phải là tiếng ồn”, mà là âm nhạc đúng nghĩa.
Peace.
Kunt
P.S: Nếu có ai hỏi khả năng rap của Black Thought thế nào, thì tôi sẽ mời người đó nghe phần freestyle dài 10 phút của anh trên chương trình của tay dẫn chương trình nổi tiếng Funkmaster Flex của kênh Hot 97.
Phần freestyle này của anh gây “bỏng” toàn bộ giới nghe nhạc hip hop mà Puff Daddy phải thốt lên là màn freestyle đỉnh nhất mọi thời đại. Black Thought đem đến đủ các yếu tố cơ bản về chất lượng trong một bài rap: flow hơi không đứt suốt 10 phút, gieo vần nhiều khúc cực kỳ phức tạp và siêu đẳng, nội dung thì đủ cả từ đa nghĩa, thâm thuý đến mỉa mai.
Có kẻ cho rằng Black Thought có chuẩn bị trước. Đúng thôi. Cũng như những rapper khác, khi tham gia màn freestyle nào, họ đều có định hình sẵn trong đầu một số cấu trúc nội dung. Nhưng nghĩ mà xem, ý ám chỉ là Black Thought đi "học thuộc lòng" bài rap hơn 2.000 từ thì rõ là do đố kỵ mà thôi.
Với quá nhiều câu "chất" trong đoạn freestyle như này:
“It's a body dead in the car and it's prob'ly one of yours” / “Things fall apart when the center too weak to hold y'all” / “I ain't one of y'all peers, I'm the sum of all fears” / “Fools swear they wise, wise men know they foolish” / “I told you keep out of the hood: circumcise” / “The only thing for sure is taxes, death and trouble” / “I'm at a level of intelligence you can't define/ Einstein, Shakespeare, Voltaire, Tesla”;
... mà không đặt Black Thought trong vị trí top 10 thì cũng đáng buồn đấy.
Comments