Tản mạn (ep. 22): Chuyện thay đổi phong cách nhạc và band “tắc kè hoa” King Gizzard & The Lizard Wizard
- K.K.N.

- 12 minutes ago
- 13 min read
Cho tới thời điểm của bài viết này EmoodziK cũng hoạt động được 7 năm và con số bài viết đã ngấp nghé gần 500. Trong số hơn 500 nghệ sĩ / ban nhạc đa thể loại tạp phế lù mà chúng tôi đã đề cập với những nhạc phẩm kéo dài từ những thập niên 60, 70 (đôi lúc còn lùi xa về trước đó) cho tới những nhạc phẩm mới nhất ngày nay, có những người chúng tôi khen vì nhạc phẩm về sau vẫn tạo ra sự mới mẻ, nhưng có những người chúng tôi băn khoăn vì sự thay đổi không phù hợp; có những người chúng tôi khen vì sự hấp dẫn không nhàm chán ở một dòng nhạc duy nhất họ theo đuổi, nhưng lại có những người chúng tôi không khoái vì thứ âm nhạc một màu.

Tựu chung lại tất cả cũng đều quy về một yếu tố duy nhất: “Chất lượng âm nhạc như thế nào?” - một yếu tố mang nặng tính chủ quan của từng con người. Người ta có câu “Beauty is in the eye of the beholder” – tạm dịch “Cái đẹp tùy thuộc vào người cảm nhận”. Bởi thế nên âm nhạc của một nghệ sĩ / ban nhạc ở mỗi thời điểm được đánh giá hay hay dở cũng tùy thuộc vào người đánh giá. Không có sự đúng sai trong đó, chỉ có sự đồng điệu hay khác biệt giữa chúng ta, giữa EmoodziK và từng người trong các bạn.
Vậy nên bài viết này sẽ mang nặng tính chủ quan của người viết và có thể động chạm tới những điều bạn không muốn đọc nên các bạn có thể cân nhắc trước khi tiếp tục để suy ngẫm cùng chúng tôi về chủ đề:
THAY ĐỔI PHONG CÁCH NHẠC, NÊN HAY KHÔNG NÊN?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta sẽ nhìn vào mấy tình huống sau:
Tình huống thứ 1 – Giữ nguyên phong cách
Để tìm một nghệ sĩ / ban nhạc giữ đúng một phong cách nhạc trong sự nghiệp kể ra cũng khó. Đó là vì ít hay nhiều người nghệ sĩ hoặc ban nhạc đó sẽ có những thay đổi nhất định qua phần âm thanh phối khí. Thế nhưng sẽ có nhóm nghệ sĩ / ban nhạc mà nếu nhìn vào phần lớn sự nghiệp âm nhạc của họ, chúng ta tìm thấy “lối mòn quen thuộc” trong phong cách nhạc. Và dần dà sau khoảng thời gian nhất định, mỗi người chúng ta sẽ tự cảm nhận “lối mòn quen thuộc” đó có còn đủ hấp dẫn hay ho nữa không.
Giống như nồi nước phở ở một quán ăn bán trong suốt cả một ngày, khi lượng nước lèo vơi dần đi thì chất lượng của những bát phở về sau có còn ngon hay không tùy thuộc vào cách người bán làm đầy nồi nước đó. Nếu họ đổ nước sôi thì bát phở sẽ dần trở nên nhạt nhẽo. Nếu họ đổ nước sôi và nêm thêm gia vị mì chính thì các bát phở sau sẽ dần “mất chất”. Nhưng nếu họ dành công sức để nấu và đổ thêm nước cốt theo đúng tỷ lệ thì chất lượng của bát phở đầu tiên với các bát phở sau đó gần như không thay đổi.
Âm nhạc của những nghệ sĩ / ban nhạc thuộc nhóm này là như vậy.
Lấy ví dụ Ed Sheeran, kẻ có tài năng viết ra các bài hát có giai điệu trữ tình nhẹ nhàng đi vào lòng người. Thế nhưng vòng hòa âm lặp đơn giản của anh là cái bẫy chết người khiến cho những bài hát khác đi theo công thức viết nhạc của Ed càng ngày càng dễ đoán, một màu và thậm chí những bài hát về sau bị nhạt nhẽo như nồi nước phở làm đầy bằng ấm nước đun sôi.
Có những ban nhạc khác như Muse, công thức làm nhạc nhồi nhét dầy đặc, cao trào với các giai điệu trầm bổng lên xuống thực sự hấp dẫn trong các album đầu của sự nghiệp. Họ thậm chí cũng có những cách nêm nếm gia vị để tăng độ đậm cho nhạc phẩm của mình bằng các khúc nhạc lớn và hùng vĩ, thế nhưng cách làm này đến một lúc lại có thể khiến người nghe bội thực.
Rồi đến như ban nhạc mà ai-cũng-biết-là-band-gì-đấy mà chúng tôi không tiện nêu tên ở đây, họ đã có lúc thử sức với việc thay đổi phong cách nhạc ở một vài album, lúc thì có nét thú vị, lúc thì lại khá là hời hợt, nhưng tựu chung lại họ vẫn luẩn quẩn trong việc đổi mới để rồi cái công thức nhạc diệu kỳ hợp xu thế của ngày đầu tiên vẫn bị vương vấn thiếu sáng tạo. Đã thế khi họ tái hợp với một vài thành viên mới, album của band vẫn bị tắc lại khuôn mẫu ngày xưa, giản đơn, thiếu hẳn nét biến hóa cần có của một ban nhạc. Trong quá khứ, đã có lúc tôi tưởng họ nhận ra tầm quan trọng của những câu đàn, tiếng trống chơi thật hay của từng thành viên để bổ sung vào các nhạc phẩm về sau, thì rồi họ lại trở về với sự tập trung vào giọng hát của ca sĩ chính và giai điệu thiếu sáng tạo, trên nền nhạc cụ chơi chỉ mang tính chất làm nền. Đến nỗi 5 cây nhạc cụ chơi trong band ở thời điểm hiện tại thiếu những đoạn instrumental break biến tấu và đánh nghe không sướng như những ban nhạc chỉ có 3 – 4 cây.
Có thể thấy việc “mất chất” trong âm nhạc ở đây không chỉ xảy ra với tình huống một nghệ sĩ hay ban nhạc thay đổi phong cách nhạc, mà cả khi họ giữ nguyên một phong cách đó nhưng quên mất việc trau dồi “nấu thêm thứ nước cốt” để làm đầy cho những nhạc phẩm sau.
Với ý kiến cá nhân chúng tôi, AC/DC, Rammstein và Alter Bridge là một số ví dụ của những ban nhạc trung thành với phong cách nhạc của họ nhưng vẫn giữ được “cái chất”. Với AC/DC, đó là các câu riff chơi vẫn đã hai lỗ nhĩ. Với Rammstein, đó là âm thanh Industrial hừng hực đốt cháy các giai điệu nhạc hấp dẫn không bao giờ nhàm chán. Với Alter Bridge, dù cũng có vài lúc Alter Bridge khiến chúng tôi nhàm chán bởi phần cấu trúc nhạc một số bài về sau bị lặp lại từ những sáng tác cũ, nhưng những màn phối hợp giữa các cây nhạc cụ được chơi bằng cả tâm huyết, đặc biệt là những câu đàn solo do cả Mark Tremonti và Myles Kennedy thể hiện lại khiến chúng tôi vẫn phải dõi theo các nhạc phẩm của band và những dự án riêng của từng người họ.
Tình huống thứ 2 – Thay đổi phong cách nhạc
Tương tự chuyện một nghệ sĩ / ban nhạc có thể vẫn “mất chất” khi giữ nguyên một phong cách, trong tình huống họ thay đổi phong cách nhạc thì chuyện “mất chất” phụ thuộc nhiều vào chất lượng nhạc phẩm mới đó nghe ra sao, chứ lại không nằm ở sự khác biệt giữa phong cách nhạc mới và phong cách nhạc trước đó.
Maroon 5 là một ví dụ khi họ ra mắt thị trường bằng album mang phong cách Pop Soul với những giai điệu hay gợi tình được bổ trợ bằng phần phối khí các cây nhạc cụ chơi hợp lý. Thế nhưng có thể vì tiếng gọi của thương mại đã biến ban nhạc dần dà thành cái mác cho nhóm nhạc của Adam Levine và những người bạn khi giọng ca và giai điệu hát của Adam được đẩy lên làm chủ đạo và vai trò những thành viên trở nên mờ nhạt hơn. Đến việc sáng tác nhạc của band cũng được outsource ra ngoài thay vì lối tự biên tự diễn như trước kia.
Coldplay lại là một ví dụ khác khi chất lượng trong suốt mấy album đầu tiên của band đều cực kỳ chất lượng, cả khi họ có những bước thay đổi nhẹ trong phong cách nhạc khi thêm âm thanh space rock ở đĩa X&Y và màu sắc ảo diệu art rock / pop ở Viva la Vida or Death and All His Friends. Thế rồi bỗng dưng Coldplay chuyển sang lối làm nhạc mới mẻ hiện đại, nhưng đánh mất đi chất “soul” ngọt ngào của những ngày đầu.
Chúng tôi không chê bai chuyện nghệ sĩ / ban nhạc lựa chọn chơi thứ nhạc mang âm hưởng Pop, nhẹ hơn trước là điều xấu xa gì bởi vì nhạc Pop mà làm hay thì vẫn hấp dẫn vô cùng. Các bạn cứ nhìn như Elton John ý. Ông đã từng có loạt tuyệt phẩm thời thập niên 70 theo dòng nhạc Pop Rock như album Honky Château, Goodbye Yellow Brick Road, Captain Fantastic and the Brown Dirt Cowboy; rồi sau đó nhẹ nhàng và chậm rãi hơn với Made In England, The Big Picture, Songs from the West Coast và The Diving Board vẫn hay vô cùng ở lối sáng tác giai điệu ngọt ngào trên các vòng hòa âm hấp dẫn. Rồi như ban nhạc Arctic Monkeys lần lượt nhẹ và chậm dần đều từ âm thanh Post-Punk Revival, Indie Rock và Garage Rock ở mấy album đầu tiên chuyển sang Blues Rock, R&B ở đĩa AM và gây sốc với Lounge Pop và Baroque Pop ở đĩa Tranquility Base Hotel & Casino và The Car. Nhưng dù sốc thế nào, ban nhạc vẫn giữ được cái chất của cách viết nhạc và lời trau chuốt, và thần thái phớt Ăng-lê của thủ lĩnh Alex Turner. Đến như ban nhạc chuyên dòng Progressive và Experimental Rock như The Mars Volta khi tung ra album mang màu sắc Pop mang tên “The Mars Volta” phát hành năm 2022, tôi vẫn thấy sức hấp dẫn khó cưỡng ở phần phối khí và sản xuất nhạc mà thành viên Omar Rodríguez-López kiến tạo được chất Progressive trên nền nhạc nhiều khoảng trống hơn ở album “Pop hóa” này.
Đây là lý do mà vẫn có nhiều trường hợp nghệ sĩ / ban nhạc thay đổi phong cách liên tục nhưng âm nhạc họ tạo ra vẫn tuyệt hay thì không bao giờ. Các bạn vẫn nhớ những The Beatles, David Bowie, Nick Cave & the Bad Seeds, Damon Albarn chứ?
Thế nhưng trong mục này tôi xin nhường spotlight cho ban nhạc đến từ nước Úc mang tên King Gizzard & the Lizard Wizard.
Tình huống thứ 3 – chơi lớn như King Gizzard & the Lizard Wizard
Nếu nói về mức độ thay đổi phong cách nhạc liên xoành xoạch mà vẫn giữ được “chất” thì chúng tôi tin rằng King Gizzard & the Lizard Wizard xứng đáng làm nhân vật chính của nửa cuối bài viết này, dù đây thực chất vẫn là Tình huống thứ 2.
Tại sao ư? Họ là ban nhạc vẫn còn khá trẻ, được thành lập từ năm 2010, tức là mới chỉ cách đây 15 năm. Thế nhưng số lượng album được phát hành cho đến giờ đã lên đến con số 27, tức là trung bình gần 2 album cho mỗi năm (mà giờ các bạn có thể tìm nghe trên Bandcamp hay Apple Music do ban nhạc đã gỡ bộ discography khỏi Spotify). Thực tế là vào năm 2017, King Gizzard còn chơi lớn khi hoàn tất mục tiêu đề ra là 5 album trong một năm, và lặp lại thành tích đó vào năm 2022.
Nếu để nói là số lượng bù chất lượng thì King Gizzard sẽ không xứng đáng được nhắc tới ở đây. Với những ai đã từng va phải một hoặc hai album của band (giống như cách tôi – Kink bị ông Kcid dụ khị) thì sẽ nhanh chóng bị cuốn vào thứ nhạc Progressive đa dạng và mê hoặc của họ để tìm nghe các album khác. Kết quả là với những ai hâm mộ bộ discography 27 album của band thì ắt hẳn người đó có một gu nhạc đa dạng bởi King Gizzard là một minh chứng cho ví dụ một ban nhạc đi theo hướng “nhạc gì cũng nhảy” và “nhảy” gần như lúc nào cũng hay. Giống như một đầu bếp tài ba, họ mày mò cho ra nhạc đủ các thể loại “món ăn”, bao gồm: Garage Rock, Psychedelic Rock, Orchestral Rock, Experimental, Audiobook, Progressive, Jazz, Thrash Metal, Doom Metal, Blues, Funk, Roots Rock, Folk, Acoustic, Dream Pop, Art Pop, Synth Pop, Dance, Techno, Electropop, Trance, Avant-Garde, R&B, Psychedelic Soul, … và cả Hip Hop.
Album đầu tay 12 Bar Bruise (2012) của band theo phong cách Garage Rock có âm thanh thô kệch tạo bởi việc thu âm qua chiếc điện thoại iPhone. Thế rồi tới album thứ 2, Eyes Like The Sky (2013) đã quay sang dòng “Western Audiobook” với màu nhạc cao bồi và lời đọc thay cho giọng hát như một album nhạc phim hơn là nhạc phẩm thuần túy. Tới Float Along – Fill Your Lungs (2013), ban nhạc chuyển tới Psychedelic Rock – âm thanh đặc trưng của King Gizzard sau này và chơi lớn với track instrumental mở đầu “Head On/Pill” dài tới 16 phút.
Cứ thế, qua từng album, King Gizzard lại làm mới và gây sốc người hâm mộ với những sáng tạo vượt xa khỏi tưởng tượng và kỳ vọng của bất kỳ ai.
Đó là sự liền mạch giữa các track như một bản trường ca ở album I’m In Your Mind Fuzz (2014). Rồi đó là album phong cách Jazz Rock mang tên Quarters (2015) với 4 track có độ dài bằng nhau, chính xác là 10 phút 10 giây mỗi bài. Đó còn là Paper Mâché Dream Balloon (2015) sử dụng những nhạc cụ như sáo và shaker cho âm thanh acoustic của thể loại Bluegrass và Folk Rock và Nonagon Infinity (2016) là những âm thanh looping nối tiếp giữa từng bài để tạo nên một vòng lặp không dừng từ đầu cho tới cuối và tiếp tục lộn ngược về track đầu.
Bằng phong cách đậm chất Progressive, lối sáng tác trên các nhịp lẻ, chuyển đổi số chỉ nhịp liên tục hay chơi đa nhịp polyrhythm là chuyện thường thấy trong các tác phẩm của King Gizzard & the Lizard Wizard. Vòng hợp âm mà ban nhạc sáng tác trong các nhạc phẩm thì phong phú vô kể. Ban nhạc thậm chí còn chơi lớn khi thách thức nhau tạo ra Ice, Death, Planets, Lungs, Mushrooms And Lava (2022), 1 album có 7 bài được viết trên 7 âm giai khác nhau: Ionian, Dorian, Phrygian, Lydian, Mixolydian, Aeolian và Locrian (với chữ cái đầu tiên của mỗi âm giai cũng chính là chữ cái đầu của mỗi từ trong tiêu đề album). Kết quả là chúng ta có lần lượt các bài “Mycelium” (được viết trên âm giai Ionian), “Ice V” (âm giai Dorian), “Magma” (âm giai Phrygian), “Lava” (âm giai Lydian), “Hell’s Itch” (âm giai Mixolydian), “Iron Lung” (âm giai Aeolian) và “Gliese 710” (âm giai Locrian); trong đó âm giai Locrian là ít gặp nhất trong các sáng tác bởi yếu tố nghịch tai tạo bởi quãng giữa các nốt trong đó, thế mà King Gizzard vẫn viết ra bản “Gliese 710” nghe chênh vênh rất đã. Để giải thích cho tính chất của các âm giai này thì các bạn có thể hiểu nôm na mỗi âm giai sẽ có yếu tố cảm xúc khác nhau, và nếu quy ra món ăn như nồi nước phở tôi nói ở trên, mỗi âm giai sẽ giống như thứ gia vị riêng biệt để tạo các nồi phở khác nhau (nôm na như lúc bỏ mắm tôm để giống món Việt, lúc đổ dầu mè để giống món Tàu, lúc cho cà ri để lai vị Ấn, hoặc lúc cho nấm truffle để có hương vị Tây).
Không dừng ở đó, King Gizzard còn táo bạo khi thể nghiệm các nhạc cụ có thể chơi các nốt bán âm (có khoảng cách nhỏ hơn nửa cung nằm giữa các nốt nhạc truyền thống mà chúng ta biết) để đưa vào album Flying Microtonal Banana (2017) và K.G. (2020), thổi hồn Á Đông vào một album chơi Psychedelic Rock của phương Tây. Đó không chỉ là các nốt bán âm có âm sắc như những cây đàn bị căn lệch tông được chơi xen kẽ giữa những hợp âm truyền thống, mà còn có cả những đoạn giai điệu hát nhắm tới các nốt không nằm trong 12 nốt nhạc, đối ẩm với tiếng nhạc cụ nghe nghịch tai mà rất kỳ ảo.
Phát hành nhiều album như vậy, King Gizzard & the Lizard Wizard lại luôn giữ vững phong độ và chất lượng, hiếm khi nhét những bản filler cho đủ đầy một đĩa nhạc. Đổi phong cách nhạc nhiều như vậy, King Gizzard & the Lizard Wizard lại không làm ra thứ nhạc xoàng xĩnh, vụng về. Dưới sự lãnh đạo của frontman Stu Mackenzie. người đưa ra định hướng và đóng góp nhiều sáng tác nhất của nhóm, có một kiến thức nhạc lý đủ rộng và khả năng chơi nhạc đủ tài để không bị một rào cản khuôn mẫu nhạc nào hạn chế sự dẫn dắt của anh. Điểm chung của các thành viên (trước là 7 người, nay còn 6) trong band là họ đều góp giọng trong sáng tác của mình và mỗi người đều biết chơi nhiều nhạc cụ, từ guitar, keyboard, bass, trống đến violin, sáo, saxophone, setar. Nhưng phong cách khác biệt của từng người lại làm nên tính phong phú và đa dạng trong sáng tác và lối chơi của band. Bên cạnh Stu chuyên khám phá những chân trời âm nhạc mới mẻ, Joey Walker có lối viết nhạc phiêu và lối viết lời mang chất thơ ca, Ambrose Kenny-Smith có phong cách nhạc bluesy, Cook Craig thì viết về những thứ giản dị trong cuộc sống hay về câu chuyện lịch sử. Về kỹ thuật chơi nhạc, nếu như các thành viên đều góp sức tạo các lớp âm thanh bện vào nhau cực kỳ hiệu quả, với cá nhân tôi, riêng tay trống Michael "Cavs" Cavanagh là một nhân tố quan trọng khi anh đủ trình độ để chèo lái đủ mọi bài, đủ mọi dòng nhạc thể loại, trên đủ mọi tốc độ, với đủ kiểu nhịp điệu. Nhờ đó thứ nhạc phức tạp mà Stu và các thành viên nhắm tới mới có thể được thể hiện trên nền trống chắc nịch cùng các câu fill dồn trống đã tai của Cavs.
Đó là lý do cái “chất” của King Gizzard & the Lizard Wizard lại toát ra từ không gian nhạc mang đậm chất jam ngẫu hứng của các thành viên nghe rất cuốn hút. Họ không hẳn chơi các câu đàn siêu kỹ thuật của bậc virtuoso nhưng cách thể hiện tính nhạc ở các tiếng đàn lồng vào nhau, tung hứng giữa các thành viên nghe thực sự đã, thứ được thể hiện rõ nét trong cả các bản diễn live của band.
***
Quay lại câu hỏi chính của chủ đề bài viết “Thay đổi phong cách nhạc, nên hay không nên?”, với chúng tôi, âm nhạc nên được đánh giá ở tính chất tổng thể. Âm nhạc không phải chỉ dừng ở việc một ca sĩ hát hay hay dở, giai điệu đó dễ nghe hay không, một album có một vài bài hay là đủ. Với chúng tôi, cái trường tồn của “chất” người nghệ sĩ / ban nhạc nằm ở xuyên suốt cả album - toàn bộ nhạc phẩm, từ sáng tác nhạc và ca từ, sản xuất và phối khí, lối thể hiện của các track nhạc cụ mà trong đó giọng hát chỉ là một yếu tố.
Nói một cách đơn giản hơn, chúng tôi cũng không tự nhận mình có thể hiểu được hết yếu tố kỹ thuật làm nhạc và thu âm phòng thu, nhưng chừng nào tổng thể sản phẩm âm nhạc đó hay và thú vị, thì có nghĩa cái “chất” của người nghệ sĩ hay ban nhạc vẫn còn đó, bất chấp việc thứ nhạc họ chơi khác biệt hay vẫn giữ nguyên một phong cách so với trước.
Hẹn gặp lại!
Kink






