top of page

Yếu tố điện ảnh trong nhạc của The Weeknd

Abel Tesfaye từng nuôi một ước mơ làm phim trước khi dấn thân vào sự nghiệp âm nhạc. Trước khi sáng tác nhạc, anh từng cặm cụi tập viết kịch bản và truyện ngắn cho phim. Những đạo diễn như David Lynch, David Cronenberg, Stanley Kubrick và Martin Scorsese chính là những người ảnh hưởng tới gu và định hướng nghệ thuật của anh, không chỉ ở hình ảnh diện mạo, phong cách làm những video nhạc, mà cả trong việc sáng tác nhạc và lời. Biết rằng hai dự án điện ảnh gần đây mà Abel tham gia thực hiện là TV seri “The Idol” và bộ phim “Hurry Up Tomorrow” (mang cùng tên với album mới nhất của anh) đều bị chê tả tơi vì chất lượng của chúng, và biết rằng chúng ta cũng may mắn vì anh đã không có cơ hội thử sức với điện ảnh trước khi theo đuổi âm nhạc, có một điều không thể phủ nhận là yếu tố điện ảnh lại chính là thứ giúp cho âm nhạc của Abel Tesfaye aka The Weeknd lại độc đáo và hấp dẫn đến vậy.


Ngay từ các nhạc phẩm đầu tay, ở thời điểm chàng trai Abel Tesfaye chỉ mới là kẻ vô danh và tập tành làm nhạc, anh đã khéo léo đặt các bài hát của mình trong bối cảnh của những câu chuyện tổng thể xuyên suốt, có sự kết nối với nhau như một vũ trụ điện ảnh mang tên “The Weeknd”. Bởi vậy bộ 3 mixtape đầu tiên, House of Balloons, Thursday và Echoes of Silence (đều phát hành trong năm 2011) đã tạo ấn tượng mạnh với người yêu nhạc, cánh báo chí và giới phê bình nhờ chất lượng nghệ thuật trong phần nhạc và lời. Bên cạnh thứ âm nhạc Alternative R&B được làm mới đầy mê hoặc mà tôi sẽ nói tới ở phần sau của bài viết, lời hát của các bài trong 3 mixtape này còn kể những câu chuyện xoay quanh nhân vật The Weeknd trong một cuộc hành trình tâm lý với sự phát triển tuyến nhân vật hệt như một bộ phim.


Trong phần 1 - House of Balloons, nhân vật chính được giới thiệu là kẻ nam tính độc hại, sống cuộc sống trụy lạc. “Open your hand, take a glass / Don't be scared, I'm right here / Even though, you don't roll / Trust me, girl, you wanna be high for this”. Hắn luôn tìm cách dụ dỗ những cô gái hắn yêu tham gia vào những buổi tiệc tùng hoan lạc, ngập ngụa “mai thúy” và các chất kích thích hạng nặng. Chính nỗi sợ của sự cô đơn càng khiến hắn dấn sâu vào suy nghĩ thao túng tâm lý các cô gái để rồi những người đó rốt cục phải sợ hãi bỏ chạy khỏi hắn, tạo nên một vòng lặp không có hồi kết.

 

Trong mixtape Thursday – phần 2 của câu chuyện, Abel đưa người nghe tới góc nhìn cụ thể hơn của Valerie, một trong những nạn nhân của nhân vật nam chính trong House of Balloons. Tình yêu mù quáng của Valerie khiến cô bị hắn thao túng hoàn toàn, để rồi cô đã tự kết liễu cuộc đời khi biết hắn phản bội mình. Kết cục của câu chuyện trong Thursday là tay bạn trai giờ đây mới nhận ra những cảm xúc đặc biệt mà hắn dành cho Valerie. Sự nuối tiếc muộn màng khiến hắn phải kìm nén, cố quên đi nỗi đau, và rồi tiếp tục kiếm tìm những người con gái khác. Và cảm xúc này của hắn chỉ được bộc lộ mãi cho tới track “Montreal” ở mixtape sau đó. “'Cause ain't nobody feels the way that I feel when I'm alone / So if I say that I won't call / The lying comes natural to me / You probably could have had it all / You could have been that lonely star”.

 

Trong phần 3 - Echoes of Silence và cũng là phần kết của bộ ba mixtape, người nghe được chứng kiến nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện bước sang một giai đoạn mới của cuộc đời, có danh vọng và quyền lực. Hắn không còn phải thao túng đối phương trong những mối quan hệ khi địa vị của hắn đã thừa đủ lôi kéo phụ nữ xung quanh lao vào hắn. Thế nhưng giờ cũng là lúc đầu óc hắn cảm thấy trống rỗng và mất phương hướng khi hắn nhận ra một ngày, người cô độc sẽ lại chính là hắn. Phần cuối của bản mixtape là những cảm xúc bị tổn thương mà hắn giờ phải đối mặt khi không tìm được tình yêu đích thực mà hắn mong đợi như từng có được với Valerie. “I like the thrill, nothings gon’ make me feel this real” là những gì người phụ nữ hắn theo đuổi đáp lại hắn, hệt như những gì hắn từng nói với những người con gái khác trước đây. Sau những điều xấu xa hắn gây ra với những người con gái trước kia, định mệnh đã lại đặt hắn vào đúng vị trí của những người con gái đó. Từ một kẻ làm chủ và thao túng trong các mối quan hệ, hắn bỗng dưng trở thành kẻ phụ thuộc, bị chối bỏ để có một tình yêu đích thực.

 

Điều thú vị trong những câu chuyện mà Abel kể là cách anh đặt người nghe vào góc nhìn của nhân vật chính trong phần 1 và phần 3, nhưng cũng lại tìm thời khắc để “lùi camera” lại ra xa để đưa chúng ta tới góc nhìn của một trong những người tình của hắn. Bằng cách này Abel giúp câu chuyện của anh được kể một cách sinh động và tạo sự kết nối cảm thông của người nghe với các nhân vật, cho dù nhân vật nam chính trong câu chuyện đó mang nhiều tính cách của một kẻ xấu. Không dừng ở đó, các ca từ còn ẩn chứa cả những lớp nghĩa phía sau, nói về cảm xúc và suy nghĩ của Abel về định hướng âm nhạc và khát khao thành công của mình, tạo nên một tác phẩm âm nhạc đa nghĩa và sâu sắc.

 

Khi được phóng viên hỏi liệu câu chuyện 3 hồi trong các bản mixtape đó có phải phần nào là tấm gương phản chiếu cuộc đời của Abel không thì câu trả lời là anh đã cố tình cường điệu hóa chúng giống như những thước phim. Làm như vậy thì cả tác phẩm sẽ trở nên hấp dẫn hơn, đặc biệt là khi yếu tố điện ảnh đó còn được tô đậm ở cả phần nhạc.

 

Điểm chung trong cách làm nhạc, cũng như định hướng nghệ thuật của Abel Tesfaye khi hợp tác với các nhà sản xuất nhạc khác là tạo cảm xúc qua bầu không gian âm nhạc như trong một bộ phim, qua đó hiệu ứng âm thanh và âm sắc được chú ý tỉ mỉ để đẩy câu chuyện đi theo từng hồi. Nhờ vậy tính lặp trong phần phối khí ở từng khúc nhạc trong cùng một bài khá là ít gặp, khi mà từng lớp nhạc cụ và âm thanh khác nhau đều phải lần lượt xuất hiện để “dịch chuyển các khung hình trong bộ phim đó đi theo nhân vật và tuyến truyện”.


Các bài của Abel thường được phủ một lớp màu nền đầu tiên bằng tiếng synth mềm mại chơi các nốt ngân dài để tạo không gian. Để tăng cảm giác rộng lớn cho bầu không gian này, cần có tiếng nhạc cụ khác chơi các câu motif có tiết tấu nhanh hơn chút, giống như những sinh vật và sự vật được tô điểm phía sau. Rồi để tạo chiều sâu khung cảnh, dải trầm là tiếng đàn bass / synth bass có thể chơi rải rác vài nốt ở các đoạn verse, và chuyển sang tiết tấu groovy trong đoạn hook nhằm thay đổi sắc thái. Còn nhạc cụ trống được sử dụng để điều khiển nhịp độ của câu chuyện. Với những bài có sắc thái chậm rãi, tiếng kick và snare sẽ thưa thớt để nới rộng không gian bài nhạc. Còn những bài mang tiết tấu nhanh hơn, thì các tiếng trong nhạc cụ trống sẽ xuất hiện lần lượt, để dành cho khúc cao trào mới òa vào cùng một lúc. Các track nhạc cụ này thường được xử lý với hiệu ứng reverb và delay để tạo khung cảnh rộng cho bài. Ví dụ trong “Call Out My Name” ở bản EP My Dear Melancholy (2018), đoạn đầu phần nhạc khá là thưa thớt, nhưng lại đủ để truyền cảm giác không gian lạnh lẽo, và đến khi tiếng trống vào bài cùng đoạn điệp khúc, tiếng snare gõ vào có cảm giác trễ nải như thể níu kéo cho câu hát “Call out my name when I kiss you so gently / I want you to stay”. Hay trong “Can’t Feel My Face” ở album Beauty Behind The Madness (2015), đoạn đầu vào bài chỉ có âm thanh synth vang rộng kéo dài phía sau để đến giây thứ 45, tiếng trống và bass mới xuất hiện, chơi theo nhịp điệu funky hệt như nhịp tim đập đầy hồi hộp làm sắc thái bài hát quay ngoắt 180 độ khi Abel hát “I can't feel my face when I'm with you / But I love it”. Đến một bài có phần nhạc phối khí đầy đặn ngay từ đầu như “In Your Eyes” ở album After Hours (2020), đoạn điệp khúc vẫn tươi rói nhờ tiếng đàn synth có âm thanh sáng như “màu mắt” được chêm vào hát theo Abel, và khúc fill trên các con trống tom từ âm cao xuống âm thấp giúp làm nhạc điệu đa chiều và sống động.


Có thể thấy Abel không ngần ngại bắt người nghe chờ đợi để anh từng bước phủ các lớp nhạc mỗi lúc một dầy để có được hiệu ứng khúc cao trào đỉnh điểm. Nó giống như cách một đạo diễn đẩy tình tiết bộ phim lên cao qua từng hồi vậy. Thế nhưng hơn cả, phần nhạc này luôn cần có chất liệu “ear candy” để gây chú ý và làm thỏa mãn đôi tai người nghe, hệt như cách các nhà đạo diễn phim thường mang tới trong phần hình ảnh mang dấu ấn của riêng họ. Nếu nhìn vào những nhà đạo diễn tài ba mà Abel thần tượng như tôi có nhắc đến ở đầu bài viết, có thể thấy David Lynch có lối tạo hình tác động mạnh tới thị giác qua những chi tiết kỳ ảo, bí ẩn và có phần mộng mị; David Cronenberg đẩy những nhân vật của ông tới tình cảnh mà cơ thể bị cắt, cứa, biến dạng gây cảm giác rợn người; Stanley Kubrick sắp xếp các bố cục đối xứng để tạo sự cân bằng trong cảnh quay; còn Martin Scorsese có lối di chuyển linh hoạt của khung hình, tiến sát hay lùi xa nhân vật tùy theo trạng thái cảm xúc của kẻ đó.

 

Với Abel, anh cùng các nhà sản xuất nhạc như Illangelo, Doc McKinney, Mike Dean, Max Martin, DaHeala, đưa các yếu tố gây kích thích đôi tai vào những bài nhạc theo cách rất phong phú và đa dạng.

 

Trong bài “Wicked Game” ở mixtape House of Balloons (2011), câu đàn guitar vang hơi nhòe và mờ ảo mở đầu, rồi ngưng lại trước khi chơi các nốt nhạc nối tiếp giai điệu hát của Abel, theo cái cách “call and response” / “hát đối đáp”, trong đó mỗi khi Abel kết thúc một câu hát, tiếng đàn guitar kia sẽ đáp lại, tựa như sự tương tác của nhân vật với mỗi cảnh vật và tình huống vậy. Lối thể hiện “call and response” thường thấy trong nhạc Blues và Gospel này là đặc trưng thứ nhất thường thấy trong âm nhạc của Abel, ví dụ như bài “Sidewalks” (tiếng guitar điện), “I Was Never There” (tiếng hát đệm phía sau), “Out of Time” (tiếng synth âm sắc như tiếng sáo), “Cry For Me” (tiếng synth chơi các nốt ở dải cao), v.v. Bằng cách sắp xếp các câu nhạc như vậy, chúng tạo cảm giác về những âm thanh chủ đạo di chuyển linh hoạt giữa “các góc quay khác nhau” như phong cách của đạo diễn Martin Scorsese.


Trong bài “Out Of Time” ở album Dawn FM (2022), bên cạnh tiếng synth đáp lại sau câu hát mà tôi nhắc tới ở trên, một track đàn synth khác chơi câu giai điệu từ đầu bài tiếp tục đi song hành với giọng hát của Abel trong đoạn verse và khi câu hát của anh đi dần xuống thấp ở cuối verse thì câu nhạc đó đối ẩm kéo lên trên tạo sự cân bằng rất êm ái. Cách dùng nhạc cụ và phần bè vocal phía sau để đối ẩm là đặc trưng thứ hai, tạo sự đối xứng rất đẹp như phong cách làm phim của đạo diễn Stanley Kubrick. Một số bài khác của Abel cũng có lối hòa âm đối ẩm này là “Often” (câu hát phụ phía sau bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ “Seneler sürer her günüm / Yalnız gitmekten yorgunum”), “Party Monster”, “Hardest To Love” và “Wake Me Up” (với tiếng đàn điện tử chơi câu giai điệu đối ẩm).

 

Trong bài “The Hills” ở album Beauty Behind The Madness (2015), tiếng synth bị bóp méo rè đặc khai mào ngay đầu bài dễ dàng khiến người nghe giật nảy mình nếu để volume quá to khi nghe lần đầu, ngưng một lúc ở phần verse, một tiếng hét với âm thanh bị nén rè đặc bỗng vang lên và Abel hát câu điệp khúc câu "I only call you when it's half past five / The only time that I'll be by your side" theo tiết tấu ngắt nghỉ làm cho từ cuối cùng của mỗi câu ("five" và "side") lại nằm ở nhịp 1 của khuông nhạc sau đó khiến cho chúng có cảm giác như từ mở đầu cho câu tiếp theo mặc dù không hề như vậy. Đã thế phần vocal ở câu điệp khúc này cũng qua xử lý hiệu ứng tạo âm sắc như bị bóp nghẹt lại. Tiếng rè, nhiễu và nhòe là đặc trưng thứ ba trong nhạc của Abel, như thể những vết cắt đang cứa sâu vào bài nhạc, tương tự như lối làm phim của đạo diễn David Cronenberg. Đặc trưng này có thể tìm thấy trong bài “Life Of The Party” (tiếng guitar điện dày ma quái), “XO / The Host” (với hiệu ứng rè nhiễu âm và vocal phụ họa bị bóp méo tiếng hoàn toàn, rồi sau đó chêm vào bằng tiếng guitar điện rè đặc), “Starboy” (với tiếng ồn trắng “white noise” chen ngang), hay “Until We’re Skin & Bones” được nối tiếp như phần outro của bài “São Paulo” (gồm loạt những âm thanh hỗn loạn).


Trong bài “Sidewalks” ở album Starboy (2016), Abel hát mở đầu với câu “I ran out of tears when I was eighteen” với nốt chủ đạo là C# - nốt bậc 5 của nốt gốc F# trong tông giọng F#m của bài, và câu “Grew up with no father so nobody ever "son" me” hạ xuống một chút với nốt chủ đạo là B – nốt bậc 4. Theo như phân tích trên kênh Holistic Songwriting ở Youtube, đa phần các bài của Abel đi theo âm giai ngũ cung thứ (minor pentatonic scale), được rút gọn còn 5 nốt (1-b3-4-5-b7) sau khi bỏ nốt bậc 2 và nốt bậc 6. Âm giai này được sử dụng chính trong dòng nhạc Blues, do đó việc Abel chọn cách viết giai điệu trên âm giai của Blues giúp chuyển tải cảm xúc mạnh mẽ hơn. Thế nhưng, thay vì việc sử dụng nốt gốc thường thấy trong nhạc Pop, Abel chọn các nốt bậc 4 và 5 khi viết giai điệu, vừa khó đoán và vừa có sự hấp dẫn về âm sắc khi tạo độ hút qua sức căng nhất định. Vì thế âm giai ngũ cung thứ và các nốt bậc 4 và 5 trong sáng tác giai điệu là đặc trưng thứ tư, mang màu sắc buồn, mộng mị và kỳ ảo như phong cách làm phim của đạo diễn David Lynch. Một số ví dụ các bài khác mà Abel hát trên các nốt bậc 4 và 5 là “Starboy”, “Can’t Feel My Face”, “The Hills”, “Blinding Lights”.

 

Bởi vậy, không bất ngờ khi sự liên tưởng tới các bộ phim trong âm nhạc của The Weeknd qua chủ đề, ca từ, phối khí và hình ảnh đều vô cùng phong phú và không dừng ở các vị đạo diễn kể tên trên, mà còn cả những Chinatown (Roman Polanski), Blade Runner (Ridley Scott), Jacob’s Ladder (Adrian Lyne) cho tới The Dark Knight (Christopher Nolan), The Hills Have Eyes (Wes Craven), Lost In Translation (Sofia Coppola), Uncut Gems (Safdie Brothers) và rất nhiều cái tên nữa. Nguồn cảm hứng từ các tác phẩm điện ảnh kinh điển giúp Abel tạo ra những “bộ phim” của riêng anh, thế giới của câu chuyện anh kể và các nhân vật trong đó.


Nhưng thứ quan trọng nhất, nét đặc trưng thứ năm của Abel lại chính là giọng hát tuyệt hay của anh với màu sắc đầy ấn tượng khó phai. Trong bài “Adaptation” nằm ở album Kiss Land (2013), ở đoạn verse đầu và điệp khúc có tiết tấu vừa phải, người ta có thể nghe kỹ anh hát bằng giọng pha (mix voice) với các nốt rung ngân mềm và nhẹ, rồi sau đó khi ở đoạn bridge, Abel hát câu “So pure, like the love that's so uncut and raw” bằng giọng giả thanh cao và ướt át, gợi liên tưởng đến ông hoàng nhạc Pop Michael Jackson. Là người Canada, Abel mang dòng máu của bố mẹ đều là người nhập cư từ Ethiopia, do đó anh học được cả ngôn ngữ Amhara, thứ tiếng có tông giọng và nhịp điệu riêng biệt, dễ dàng nhận biết kể cả nghe từ khoảng cách xa. Âm điệu của ngôn ngữ đó, cộng với sự ảnh hưởng từ nhạc Ethiopia đã ăn vào máu của Abel, khiến cho lối thể hiện giọng giả thanh và cách rung ngân khi hát của anh rất khác biệt. Vẫn biết phong cách hát của anh chịu ảnh hưởng nhiều của Michael Jackson (như bài “Adaptation” kể trên, rồi “D.D.”, “In The Night”, “I Feel It Coming”), từ giọng falsetto nhẹ như gió đến cách rung ngân. Tuy nhiên giọng hát của Abel vẫn lại dễ nhận biết nhờ màu giọng đặc trưng, hòa âm buồn mang màu tối, cùng cách hát những nốt nhạc ngắn có tiết tấu nhanh như một rapper đang freestyle, chỉ khác là từng âm được nhả ra có cao độ lên xuống khác nhau. Đấy là chưa nói tới phần lời được viết mang đậm chất tượng hình qua các ca từ lột trần cảm xúc đến mức “thô tục”, đối nghịch với giọng hát đẹp như thiên thần mà tôi từng viết về anh từ những ngày đầu trang EmoodziK được lập ra. Bởi vậy, phong cách rất “The Weeknd” này vẫn mãi là chất liệu “ear candy” gây chú ý và làm thỏa mãn đôi tai người nghe lớn nhất.

 

Tựu chung lại, với mỗi album của Abel, anh lại mang tới một bầu không gian âm nhạc điện ảnh riêng biệt, trong đó có lẽ đĩa Beauty Behind The Madness bị yếu nhất ở điểm này dù đây vẫn là một nhạc phẩm rất hay đối với tôi. Rõ nét nhất trong bộ discography của anh chính là bộ 3 album - trilogy tiếp theo mà Abel phát hành gần đây, bao gồm: After Hours (2020), Dawn FM (2022) Hurry Up Tomorrow (2025). Bằng câu chuyện tổng thể 3 hồi như bộ mixtape đầu tay, chương đầu tiên After Hours xoáy sâu vào những trạng thái cảm xúc đen tối của nhân vật chính qua chuyện đổ vỡ trong tình yêu, nghiện ngập và tự hủy hoại. Bài cuối của đĩa - “Faith”, giống như tiêu đề, là tia sáng hy vọng le lói mở đường cho chương tiếp theo Dawn FM. Lần theo tia sáng, người nghe đi theo hắn trong cuộc hành trình tự vấn và tìm phương thuốc chữa lành bản thân. Để rồi trong chương cuối cùng, Hurry Up Tomorrow là những thăng trầm của cuộc đời nhân vật này, trải qua từng giai đoạn của hối tiếc, chấp nhận và giác ngộ. Đó là khi hắn giải phóng bản thân, đặt dấu chấm hết cho nhân vật “The Weeknd”.


Điều thú vị là với bộ 3 hồi nhạc phẩm này, Abel “nhập vai” sâu và theo sát chủ đề nhất, từ tạo hình cho tới âm nhạc. Khi After Hours là những ký ức và hoài niệm về nhạc New Wave và Dream Pop của những năm 80, thì Dawn FM đặt người nghe yên vị trong chiếc xe đang lăn bánh chậm rãi trong con đường hầm, vừa lắng nghe kênh FM radio vang ra từ chiếc loa, vừa ngẫm lại những sự kiện trong cuộc đời. Cuối cùng Hurry Up Tomorrow là sự chuyển dịch mượt mà qua từng track nhạc với những cảm xúc vui buồn lẫn lộn, dẫn người nghe cùng ôn lại những chất liệu nhạc chúng ta từng được biết tới The Weeknd từ những ngày đầu cho tới giờ. Hurry Up Tomorrow kết thúc bằng tiếng gió lạnh lẽo tạo bầu không khí ảm đạm và lại chính là âm thanh mở đầu của bài “High For This” – track đầu tiên của mixtape đầu tay – House Of Balloons.


Vậy hóa ra cả sự nghiệp âm nhạc của Abel Tesfaye dưới nghệ danh The Weeknd lại là một cuốn phim dài tập trải dài suốt 14 năm ư?

 

Hẹn gặp lại!

 

Kroon

© 2018 by EmoodziK

bottom of page