top of page

Conway The Machine, Westside Gunn & Benny The Butcher: Những kẻ hồi xuân nhạc Hip Hop

Từ “hồi xuân” trong tiêu đề tôi viết chỉ mang ý nghĩa ngược dòng thời gian, chứ chính ra nhạc Hip Hop có vòng đời phát triển khá kỳ lạ. Từ những bước đi chập chững ở những ngày đầu, Hip Hop là sân chơi để cộng đồng người da màu bày tỏ cảm xúc và suy nghĩ qua lời rap không quá cầu kỳ trên nền beat giản lược, sau dần phát triển để nâng tầm về mặt kỹ thuật trong âm vần, mật độ ca từ và các lớp ý nghĩa để phản ánh không chỉ suy nghĩ, cảm xúc mà còn thực tại xã hội và để kể những câu chuyện lôi cuốn trên những nền beat thô ráp và phức tạp. Thế rồi cho tới ngày nay, Hip Hop như một bức tranh tràn ngập nắng và bãi cỏ xanh mát khi phần nhạc được làm kỹ lưỡng tỷ mỷ, nhưng nội dung lại bị giản lược hóa trong ca từ và chủ đề, để lại một khoảng trống nhỏ là vùng đất khô cằn xa xăm. Tại đó, có 3 anh chàng Alvin Worthy, Demond Price, và Jeremie Pennick mới quyết định tham gia khai phá vùng đất bị lãng quên đó.

ree

Nói là lãng quên thì cũng không hẳn hoàn toàn đúng, bởi vẫn có những rapper theo nhánh độc lập và underground tìm tới và gây dựng tên tuổi riêng cho họ. Cái khác của 3 anh chàng này là, bên cạnh việc “hồi xuân” nhạc Hip Hop bằng thứ âm thành “cũ” và “già nua” như boom bap từ thời cuối những năm 80 và đầu những năm 90, họ kiên trì và chăm chỉ cày cuốc vùng đất này để rồi dưới nghệ danh “Westside Gunn” (aka Alvin Worthy), ông anh cùng cha khác mẹ “Conway the Machine” (aka Demond Price), cậu em họ “Benny the Butcher” (aka Jeremie Pennick), và “Griselda” - cái tên cho bộ 3, họ liên tục cho ra hàng loạt những album, mixtape, EP solo và collab với người này người kia. Nhiều đến độ nếu chỉ tính từ thời điểm năm 2012, khi hãng ghi âm Griselda Records được thành lập, Westside Gunn đã tung ra 5 album, 17 mixtape, 6 bản EP; Conway the Machine với 4 album, 12 mixtape; Benny the Butcher với 4 album, 5 mixtape, 8 bản EP; và cộng thêm gần 40 album / mixtape hợp tác chung hoặc riêng với các nghệ sĩ khác. Nghĩa là với gần 100 nhạc phẩm được phát hành trong khoảng thời gian 13 năm, Gunn, Conway cùng Benny phải tung ra tới 7 – 8 album hoặc mixtape hay EP mỗi năm.


Bình thường với số lượng này, khán giả thường sẽ dễ bị bội thực. Nhưng ở điểm xuất phát underground thấp dưới tầm radar như vậy, các sản phẩm âm nhạc đều đặn tung ra để đảm bảo một ai đó sớm muộn cùng phải tò mò tìm nghe nhạc của họ. Để rồi “mưa dầm thấm lâu”, số lượng fan của Westside, Conway và Benny ngày một đông đảo và thậm chí ngóng chờ những nhạc phẩm tiếp theo như thể cơn khát cho một nhánh nhạc kinh điển của Hip Hop ngày nào chưa được dập tắt.


Dĩ nhiên, trên tất cả vẫn là chất lượng âm nhạc luôn được duy trì ở một tầm rất cao.

 

CONWAY THE MACHINE


ree

Vào một ngày năm 2012, trong chuyến hành trình trở về nhà ở thành phố Buffalo sau đợt quảng bá mixtape Amerikan Greed, khi Conway lái xe rẽ vào hướng nhà một người bạn thì anh bất chợt bị bắn nhiều phát đạn. Một viên găm vào vai, một viên găm vào cổ, còn một viên khác cắm thẳng phía sau đầu. Thoát chết trong gang tấc nhưng hậu quả để lại cho Conway là anh vĩnh viễn bị liệt nửa bên mặt. Đã có lúc Conway nghĩ quẩn tới cái chết khi anh không thể cử động hàm trong nhiều tháng và tưởng rằng giấc mơ theo đuổi nhạc Rap của mình đã chấm dứt… cho đến khi cậu em Westside Gunn khởi động và chèo lái các dự án âm nhạc để thuyết phục Conway trở lại với nghiệp Rap.


Nhờ cột mốc cuộc đời sau lần thoát khỏi lưỡi hái tử thần đó, Conway như được tái sinh và lao vào viết lách. Phong cách rap của anh cũng thay đổi về mặt âm điệu bởi một bên mép bị lệch do cơ mặt bị liệt ở một bên, càng thôi thúc Conway truyền cảm xúc chân thực tới người nghe. Có lẽ vậy mà giọng rap của anh nghe hơi khàn, phảng phất nỗi đau trong đó, gợi tôi nhớ tới rapper đàn anh The Notorious B.I.G.



Just 'cause he from the ghetto, that don't mean he sellin' crack / He drivin' home from work, you pull him over 'cause he black / Think he gangbangin' 'cause he got dreads and a few tats / He reach for his ID, you think he reachin' for a strap / He get out, put his hands up, and he still gettin' clapped / But if he try to run, you just gon' shoot him in his back / What if it was my son? I wonder how I'm gon' react / I bet I'm finna run up in this precinct with this MAC


Phải nghe Conway trực tiếp rap đoạn lời trên trong bài “Front Lines” ở album From King To A God (2020) mới thấm được phần nào suy nghĩ của một kẻ theo lối Gangsta Rap mang đầy tâm tư trong đó. Tài kể chuyện như những đàn anh Biggie hay Ghostface Killah giúp Conway dựng loạt các hoạt cảnh trớ trêu, một mặt để vạch trần sự phân biệt của đám cảnh sát với người da màu, và một mặt để người nghe đồng cảm và thấu hiểu cho những phản ứng bột phát của những ai rơi phải vào hoàn cảnh đó.


Cái tôi thích trong lối rap của Conway là nhịp điệu từ tốn, mượt mà bởi âm điệu gieo vần không cần gồng mình. Hẳn những lời rap viết đến từ những sự kiện trong cuộc đời và trải nghiệm trực tiếp của anh là nguồn cảm hứng để Conway tuôn ra những mạch suy nghĩ. Chứ sao, thương tật vĩnh viễn trên khuôn mặt anh như để luôn nhắc nhở Conway về cuộc đời và số phận những con người da màu thường gặp phải, đau đớn và trớ trêu.



Sometimes I wonder, if this Bells Palsy didn't paralyze my grill in / Would there still be murals of my face painted on side of buildings? (I wonder) / I mean, would I still be rhymin' brilliant? They say I provide the feeling / But would my story still inspire millions?


Vậy nhưng Conway đón nhận số phận một cách nhẹ nhàng. Thậm chí khi hồi tưởng lại vụ nổ súng trong bài “God Don’t Make Mistakes” ở album cùng tên (2022), anh cũng nhìn biến cố đó từ góc nhìn tích cực, bởi nó như động lực đẩy anh tiến xa hơn với âm nhạc. Chưa kể tôi nghĩ đó là nguồn cảm hứng cho nội dung rap chạm cảm xúc người nghe qua giọng rap hơi ngọng và lời rap chân thực ít ai có được như anh. Bởi cái gì xảy ra cũng đều có nguyên nhân của nó, khi mà “mọi thứ đều do Chúa sắp đặt”.

 

WESTSIDE GUNN


Đúng ra là Gunn chưa hề có ý định tập trung cho nghiệp Rap. Anh từng nhúng tay thử sức từ năm 2004 khi chuẩn bị cho album nhạc cùng với Conway. Thế rồi trước khi Gunn có thể phát hành nó, anh lại bị tóm vì tội tàng trừ vũ khí, phải ngồi tù gần 2 năm để lại ước mơ theo đuổi nhạc Hip Hop còn dang dở.


ree

Khi ra tù, Gunn trở về với cuộc sống thường ngày và nhận thấy âm thanh xập xình của phía Nam giờ đã phổ cập, khiến cho âm thanh kinh điển của Bờ Đông ngày nào gần như bị lụi tàn tại các nơi anh ghé tới. Với bản EP Hitler Wears Hermes (2012), Gunn tập trung tạo ra định hướng âm nhạc không chỉ riêng anh, mà còn cho cả nhóm Griselda, là nguồn cảm hứng để ông anh Conway the Machine mò lại cây mic để rap trở lại.


Trong EP Hiler Wears Hermes mà sau này Gunn phát triển thành cả series với 8 phần cho tới thời điểm này, anh đưa vào thứ âm thanh ảm đạm, có yếu tố lo-fi từ những con beat boom bap mang phong cách thập niên 90. Để tạo khác biệt, bên cạnh cái mác sample “Griselda” được vang lên qua giọng nữ giới ở đầu bài, anh có những câu ad-lib đặc trưng như “doo doo doo doo”, “brrrrr” và “boom boom boom boom” thường chen ngang bài rap, với tôi ban đầu nghe khá là khó chịu như chính chất giọng mũi và cao khi rap của Gunn. Giọng rap này của anh gợi tôi nhớ đến hypeman huyền thoại Flavor Flav của nhóm Public Enemy. Nhưng mấy câu ad-lib đó khi nghe quen sẽ hiểu rằng Gunn đang dùng chúng như một loại nhạc cụ để bồi thêm cho các câu rap của anh và khách mời.



Có thể nói lời rap của Westside Gunn không phải là điểm mạnh nếu đem so với Conway the Machine và Benny the Butcher, nhưng giống như niềm đam mê với thời trang, gu lựa chọn phong cách nhạc lại là thế mạnh của Gunn. Ở vai trò chèo lái như người thuyền trưởng, Gunn vạch định ra một cái khuôn định hình cho nhạc của anh, Conway và Benny để khi làm việc với bất kỳ producer nào, yếu tố “Griselda” có thể được tìm thấy. Đó là nhịp độ của bài khá chậm rãi, số lượng hợp âm biến đổi không nhiều và thường mang âm sắc nghịch tai khó giải tỏa, cùng với chất liệu lo-fi cũ kỹ xen kẽ trong các lớp nhạc. Đến cả lối rap của Gunn và 2 người còn lại cũng đa phần từ tốn, không cần tốc độ, và thậm chí không phải lúc nào cũng liền mạch.


Quay lại với riêng Gunn, dù phần lời của anh ít phức tạp hơn so với Conway và Benny, cái cách anh thể hiện trong từng bài lại rất hợp nhạc, và vẫn có nhiều những đoạn verse Gunn thể hiện sự trau chuốt trong đó, ví dụ như “Twenty-two with grays, twenty-five left in the cage / I told him hold your head, it's worse in a grave / I threw coke in the pot, watched it bloom residue and consume / He started wavin', had a lighter and dope spoon / A n**** try to kill you for your recipe / My shooter nasal drip flowin' heavily, duckin' my third felony” - bài “327” trong album Pray For Paris (2020) hoặc “No Met Gala invite 'cause they know everywhere I go, I keep the blower / Mixed Martine with the Mowalola, soul controller / Too much of this might overdose you / Brown stones in the Black Jesus / I threw up Carbone, pickin' up the pieces / Used to play the dancefloor, creases had greases / My locker had a locker, my genes all genius” – bài “Heel Cena” trong album Heels Have Eyes 2 (2025).

 


BENNY THE BUTCHER


Giống như Conway the Machine lẫn Westside Gunn, Benny the Butcher cũng có tiểu sử bất hảo với thành tích ra tù vào tội khi anh còn tập trung vào nghiệp buôn hàng nóng. Biến cố trong cuộc đời xảy đến với Benny là khi người anh trai – Machine Gun Black bị bắn chết lúc Benny còn đang ngồi trong tù vào năm 2006. Cái chết của ông anh như cú tát cảnh tỉnh cho Benny và ảnh hưởng mạnh mẽ tới âm nhạc khi anh tham gia cùng Conway và Gunn.


ree

Là kẻ lăn lộn đường phố, người thật việc thật, lời rap của Benny vì thế xoay quanh nhiều tới chủ đề Coke Rap mà anh khắc họa chân thực. Từ “plug” – “trùm sò” là một trong những từ xuất hiện nhiều nhất trong nhạc của Benny. Trong bài “Scarface vs. Sosa, Pt. 2” nằm trong album Tana Talk 3 (2018), anh rap “Hov taught you how to move in a room full of vultures / You got it, but you ain’t pop it though, so you just a holster / Sometimes these new niggas gotta get schooled to the culture”. Nhắc tới Hov, tên của Jay-Z, người nghe có thể cảm nhận rõ sức ảnh hưởng lớn của Jay đến với Benny nhường nào. Kể cả lối rap điềm tĩnh nhưng đầy sự cao ngạo của anh cũng mang dáng dấp của đàn anh Jay.



Trong nhóm Griselda, tôi mê lối rap của Benny the Butcher nhất. Có lẽ vì lời và flow anh thể hiện rất trau chuốt và sắc bén. Giống như Clipse – bộ đôi chuyên chủ đề Coke Rap, nội dung này trong các bài của Benny chưa bao giờ gây nhàm chán nhờ kỹ thuật gieo vần và chơi chữ rất hay. Và đó còn là cả cảm xúc.


Trong bài “Joe Pesci 38”, anh rap “For the hustlers that’s gettin' money, thinkin' fast in business / Who stayed up by playin' smart and duckin' bad decisions / I wore hand-me-downs in class, bitches laughed at n****s / Now I rock designer like I'm in the fashion business / I met a plug when I was broke, not to brag, I did it / I broke a nine off in half and got in traffic with it” để kể về công việc “thường ngày” trước kia của mình. Giảm nhẹ tình tiết qua những phép chơi chữ và ẩn dụ để người nghe có sự kết nối với thực tại của những kẻ làm nghề buôn mai thúy như anh. Nhưng Benny còn khéo léo thêm phần lời mang cảm xúc chân thực như cú chốt hạ cho những ai còn chưa có sự cảm thông với suy nghĩ bộc bạch của anh: “We rap 'bout our real life 'cause it caused us pain / And when you reach certain levels, it 'cause us change / The pain subside, but the scars remain / I'm one of the realest n****s, that's broad as day / I'm on my Biggie "Who Shot Ya?" This for my partners still in lockup / Who only call back home to tell us in a box up”.

 


GRISELDA


Khi biên giới nhạc Hip Hop bị xóa mờ giữa Bờ Đông, Bờ Tây, Midwest, và Phía Nam, âm nhạc Hip Hop mang tính chất khác biệt vùng miền cũng dần biến mất. Đâu đó vẫn có những cộng đồng khơi gợi lại niềm tự hào về địa bàn, gốc gác của những rapper nổi danh đại diện cho vùng đất của họ, như trường hợp của Kendrick Lamar và Bờ Tây được nhắc tới nhiều hơn gần đây. Chính thế mà những con người ở Bờ Đông, nơi sản sinh ra Hip Hop mới lại khao khát có được những đại diện rapper thế hệ mới để họ có thể rêu rao và khoe khoang đầy tự hào.


Fan của nhóm Hip Hop Griselda mà Conway the Machine, Westside GunnBenny the Butcher lập nên chính là như vậy. Lấy tên từ nữ trùm ma túy Griselda Blanco, phong cách nhạc của Griselda mang đúng chuẩn mực của thời đại thập niên 90 của những Wu-Tang Clan, Mobb Deep, Nas, BiggieJay-Z. Âm thanh thô sơ, giản lược, nội dung về mai thúy, băng nhóm, những câu chuyện ly kỳ và lời rap đầy kỹ thuật. Đó là tất cả những gì người hâm mộ nhánh nhạc “xưa” này khao khát, bỗng nay được thỏa mãn bởi hàng loạt các nhạc phẩm của các thành viên trong Griselda mà tôi vẫn không thể có thời gian để tìm nghe hết được.


Với số lượng album, mixtape, EP phát hành sòn sòn. Với loạt series như Everybody Is F.O.O.D. của Conway, Hitler Wears Hermes của Gunn, Tana TalkThe Plugs I Met của Benny, có thể thấy rõ sự lặp lại về phong cách nhạc và nội dung trong đó. Thế nhưng không một fan nào của Griselda phàn nàn khi mà chất lượng nhạc được giữ vững ở một tầm cao xuyên suốt gần 100 nhạc phẩm. Tất cả đều nhờ định hướng tập trung nghệ thuật, bỏ mặc xu thế âm nhạc đang diễn ra bên ngoài của bộ 3 rapper tài năng này.


Không những vậy, điều người ta nể ở Conway, Gunn và Benny còn chính là cái tôi đầy kiêu hãnh ở 3 người họ. Với âm thanh đặc sệt Bờ Đông, thay vì mượn danh New York thì các anh hô vang Buffalo – vùng đất cách New York cả 500 cây số, nơi không ai ngó lơ tới những tài năng âm nhạc cho đến khi Eminem tìm đến Gunn và Conway để ký hợp đồng phân phối nhạc với Shady Records năm 2017, và Jay-Z tìm đến Gunn và Benny để ký hợp đồng quản lý với công ty Roc Nation của anh. Vì thế, không chỉ Bờ Đông giờ có thêm lực lượng như Griselda cho các fan “gáy”, mà thành phố Buffalo cũng được biết tới nhiều hơn trên bản đồ Hip Hop.


Sự kiên định trong chất lượng nhạc và lì lợm với loạt nhạc phẩm tung ra bất chấp số lượng cuối cùng cũng chứng minh sự đúng đắn trong đường hướng mà Westside Gunn, Conway the Machine và Benny the Butcher nhắm tới. Kết quả là ngoài thành công thương mại đáng chú ý cho những nghệ sĩ đến từ giới underground, họ còn được chính những huyền thoại Hip Hop, những thần tượng ngày nào nay lại là trở thành fan của âm nhạc tạo ra bởi 3 người họ. Khoảnh khắc mà Raekwon đưa cây micro – biểu tượng của ngọn đuốc để truyền lại cho Griselda trong một show diễn năm 2017, là lời khẳng định sự hồi xuân và khơi lại niềm hy vọng vào một tương lai của nhạc Hip Hop.



Hẹn gặp lại!


Kunt

© 2018 by EmoodziK

bottom of page