top of page

Mobb Deep: không thày đố mày làm nên

Trước khi có được hợp đồng ghi âm, bộ đôi Mobb Deep thường lảng vảng trước trụ sở các hãng để “tiếp thị” nhạc của hai anh. Một ngày, Havoc và Prodigy mới đứng ngoài văn phòng của Def Jam và bắt gặp Q-Tip của nhóm A Tribe Called Quest đi ngang qua. Q-Tip cũng là người duy nhất dừng lại để nghe thử nhạc của Mobb Deep và may thay anh này lại ưng phong cách nhạc của nhóm nên đã sắp xếp lịch cho Hav và P gặp những người bên hãng.


Trong hai người, Prodigy thường là kẻ luôn kè kè khẩu súng ở bên hông. Nên trước khi vào gặp mặt đại diện của Def Jam, anh mới đưa khẩu súng cho nhân viên tòa nhà. Cuộc gặp mặt không đạt kết quả tốt như mong đợi vì tay đại diện của Def Jam kêu ca rằng Mobb Deep chửi bậy nhiều và lời lẽ quá bạo lực, nhất là khi hai rapper này còn quá trẻ. Lúc đi ra, nhân viên tòa nhà mới đưa nhầm khẩu súng cho Havoc. Cầm khẩu súng, Hav nghịch nghịch chĩa lung tung về phía P. Khi một nhân viên của Def Jam quay lại với đống poster De La Soul và Slick Rick mà P xin mang về nhà treo, Hav lại chĩa nòng súng về tay này và đùa “Ê cu, đưa tao đống poster”. Khẩu súng nổ, viên đạn bắn ra găm vào bụng hắn, còn chiếc áo khoác bắt lửa vì viên đạn đi sượt qua.

Hav bị bắt sau đó nhưng may mắn thoát tội nhờ nạn nhân xác nhận đó chỉ là vụ tai nạn. Còn Mobb Deep mang tiếng oan bắn người bên Def Jam chỉ vì không được ký hợp đồng thu âm.

Nhưng điều may mắn nhất lại là sau vụ việc đó, Q-Tip vẫn đặt niềm tin vào Prodigy và Havoc, và anh vẫn ra tay giúp bộ đôi này để làm nên album lịch sử The Infamous (1995).

Bởi Q-Tip chính là người thày thứ nhất!

Trong album thứ hai – The Infamous (1995) của Mobb Deep, ngoài việc rap cùng nhóm trong hai bài “Give Up The Goods” và “Drink Away The Pain”, những gì Q-Tip hướng dẫn cho Havoc trong việc làm beat, cũng như tham gia đồng sản xuất trong phần lớn album biến anh vừa thành người thày, vừa như một thành viên thứ ba tạm thời của Mobb Deep.

Trong The Infamous, Tip gần như đóng vai trò giám sát sản xuất. Nhờ anh mà phần nhịp trống được nâng tầm, tiếng của kick drum và snare trở nên chắc nịch hơn. Bắt nguồn từ kinh nghiệm sản xuất nhạc cho A Tribe Called Quest, Tip đã thuần thục với những phần beat sắc lẹm và chặt chẽ, đặc biệt khi nó đòi hỏi kỹ thuật mix đỉnh cao vì những âm thanh chịu ảnh hưởng của Jazz luôn là những mảnh ghép phức tạp.


Vì nhạc của Mobb Deep cũng được đi theo hướng jazzy, Tip hẳn phần nhiều tìm được cảm hứng khi góp tay vào giúp hai cậu đàn em theo đuổi phong cách của họ. Dù vậy, nhạc của Mobb Deep không hề giống với A Tribe Called Quest. Tất cả là nhờ việc Tip giúp đỡ Havoc làm beat theo tầm nhìn của Hav, chứ không phải theo bất kỳ sự độc đoán nào của người thày thứ nhất này.

Chú nhớ quan sát những gì anh làm trong studio”. Q-Tip nói vậy với Hav. Hay như “Chú thấy ý tưởng nhạc này sao?”. Mọi thứ gần như chỉ là những gợi ý và hướng dẫn để đảm bảo cái hồn của Mobb Deep được giữ nguyên. Nên đó là lý do nhạc của nhóm mang những nét riêng và khác nhiều với Tribe.


Trong album The Infamous, ngoài hai bài “Give Up The Goods” và “Temperature’s Rising” mà Tip nhúng tay vào nhiều nhất, các bản beat đều do Hav sản xuất, rồi sau đó mang tới cho Tip để nhờ người thày cho ý kiến góp ý và chỉ giáo cách mix chúng hay lên. Như lần Hav muốn làm tiếng trống nghe mạnh mẽ hơn ở bài “Trife Life”, và Tip sau đó căn chỉnh lại. Hoặc ở bài “Up North Trip”, tiếng snare có âm sắc dội vang hơn bình thường, đó là vì Tip đã giúp đỡ.

Q-Tip không giấu nghề tẹo nào. Anh chỉ dẫn hết cho Havoc, từ cách thức, công thức căn chỉnh, cho đến cụ thể như làm dầy tiếng kick drum. Nhờ đó, The Infamous có phần beat đầy uy lực, khác hẳn với album đầu tay Juvenile Hell (1993), một thất bại thảm hại của Mobb Deep.

***

Album The Infamous đúng ra là không có cơ hội thành hiện thực. Bởi vì album Juvenile Hell bị vùi dập trước đó chỉ bán được 20.000 bản trước khi bị Illmatic của Nas nghiền nát dù Illmatic lúc đó mới chỉ ở dạng demo. Ngày mà HavocProdigy bị hãng ghi âm 4th & B’way Records chấm dứt hợp đồng, chiếc loa trong một cửa hàng đĩa mà được 4th & B’way tài trợ để quảng bá Mobb Deep đang phát vang nhạc của bài “Halftime” của Nas.

Một trong những lỗi thất bại của Juvenile Hell là Mobb Deep không có quyền tự quyết trong định hướng nhạc của họ. Ngoài việc đa phần album đầu tay do các producer khác làm beat trong khi Havoc và Prodigy chỉ có một vài bài, kỹ thuật làm nhạc của bộ đôi lúc này vẫn còn chưa đủ trau chuốt. Vì thế khi có được cơ hội lần hai và cũng có thể là lần cuối, Havoc toàn tâm toàn ý để chăm chút âm nhạc của The Infamous theo một ý tưởng xuyên suốt hơn. Hav đưa nhạc của nhóm tới những vùng đất tăm tối, thứ màu sắc phù hợp với nội dung của lời rap mà lát nữa chúng ta sẽ nói tới.

Chỉ có điều là ít ai để ý rằng ban đầu Hav chỉ tập trung viết lời, và ngoài Q-Tip ra, chính Prodigy lại là người đã chỉ dẫn cho anh những kỹ thuật làm beat. P chỉ cho Hav cách program nhạc và “băm chặt” các đoạn beat. Trong hai người, ban đầu P thực ra mới là kẻ rành hơn về việc sản xuất nhạc, nhưng do anh này thường hay ốm vì căn bệnh hồng cầu hình liềm, nên Hav bỗng dưng đóng vai trò sản xuất nhạc chính cho Mobb Deep.

Vậy nên Prodigy lại chính là người thày thứ hai!

Cha của Hav là một DJ nên anh có rất nhiều đĩa nhạc của thập niên 70 và 80. Còn ông của Prodigy là nghệ sĩ chơi nhạc Jazz nên P có rất nhiều đĩa nhạc thể loại này. Ban đầu Hav mới chỉ tập sao chép bản sample trên máy nghe băng cát xét, vừa bấm pause vừa bấm record, để tạo beat. Nhưng khi gặp P, Hav đã được chỉ cho cách lấy những bản sample theo cách chuyên nghiệp hơn, và ghép chúng lại với nhau. Rồi thêm các kỹ thuật “băm chặt” mà Q-Tip chỉ bảo, quay đi quay lại Hav đã thuần thục kỹ thuật sản xuất nhạc.

Thế nên ngay khi được hãng ghi âm Loud Records trao cho cơ hội làm album thứ hai và được thỏa sức sáng tạo, Hav đã nhanh chóng đưa những ý đồ nhạc của mình vào album The Infamous. Kể cả với sự tham gia của Q-Tip, âm nhạc ở album này vẫn còn đậm chất “cái tôi” của Hav trong đó, bởi Tip luôn ủng hộ và tôn trọng ý tưởng nhạc của anh. Jazz vẫn là màu sắc quan trọng trong nhạc của họ, nhưng Hav sẽ biến đổi, giảm tempo lại, xắn nhỏ ra, ghép lại từng mẩu, biến toàn bộ album thành một bản soundtrack đầy tính điện ảnh chân thực như chính nội dung rap của Mobb Deep vậy.


Trong bài “Trife Life”, cái tiếng string bị phá âm như xé toạc bầu không khí tối tăm. Tiếng này hẳn có sự ảnh hưởng lớn tới El-P khi anh này làm nhạc cho Run The Jewels sau này vì âm thanh cá tính đó xuất hiện khá nhiều. Trong bài “Q.U. – Hectic”, âm sắc piano bị biến đổi không nhận ra nổi khi nó cứ rền rứ phía dưới, đôi lúc được đối ẩm với tiếng kèn jazzy réo rắt ở trên. Hay như bài “Eye For An Eye”, ngoài âm thanh lạo xạo của tiếng đĩa than quay đầy đặc trưng, Hav còn phải tự chơi lại tiếng nhạc sample của bài “I Wish You Were Here” của Al Green để tránh phải mua lại quyền sử dụng sample, sau khi anh đã “quậy phá” phần sample bản gốc, biến chúng thành những âm thanh ghê rợn như của một bộ phim kinh dị.


Vào thời điểm cuối để hoàn thiện album The Infamous, tay nghề của Havoc đã nâng cao đáng kể và những bài nhạc trên không còn cần mấy sự tham gia của Q-Tip nữa. Kỹ thuật “chopping” – “băm xẻ” sample của Hav đạt cảnh giới đến độ chúng vẫn giữ được chất lượng sắc nét của âm thanh, nhưng lại được thay đổi nhiều màu sắc khiến người nghe không nhận ra nổi bản gốc. Như với trường hợp của bài “Shook Ones, Pt. II”, ngoài tiếng rít như nồi hơi nước, phải mất đến 16 năm người ta mới tìm ra được danh tính của bản gốc cho câu đàn bass mà Hav sample cho bài này (bởi chính Hav cũng quên luôn anh đã sample từ ai). Hóa ra đó là câu đàn piano trong bài “Jessica” của Herbie Hancock từ năm 1969 được Hav “phá” bằng cách tăng tốc rồi làm chậm lại tốc đố, tạo ra hai track có cao độ khác nhau và trở thành một vòng lặp nghe giống tiếng đàn bass hơn là piano hay keyboard ở bản gốc của nó.

Sau The Infamous, Havoc hoàn thiện mọi kỹ năng làm nhạc cho riêng anh, và những gì anh mang lại cho Mobb Deep ở những album sau, tiêu biểu như đĩa Hell On Earth (1996), vừa mang trọn vẹn âm sắc riêng của nhóm, vừa thể hiện những gì Hav học được từ Q-Tip và Prodigy, và thậm chí còn tinh xảo hơn. Như bài “Drop A Gem On ‘Em” vừa có tiếng đĩa than lạo xạo của Hav, vừa có âm thanh snare dội mạnh mà anh học từ Tip. Nhìn lại, phần nhạc dưới bàn tay sản xuất của Havoc sắc nét và đối lập hẳn phong cách nhạc với những bản sample low-resolution trong nhạc Hip Hop bờ Đông của Wu-Tang Clan do RZA sản xuất hay trong chính album Illmatic của Nas.

***

Lúc phát hành album đầu tay ở tuổi 19, ProdigyHavoc vẫn còn đầy nhí nhảnh và rap những câu chửi thề như hai cậu choai choai. Người ta có thể cảm nhận được phần nào những góc khuất và tối tăm trong nội dung, nhưng thế vẫn là chưa đủ. Để rồi trong những lần được báo đài phỏng vấn, P và Hav toàn bị hỏi những câu liên quan đến Nas, người đồng hương với Hav đến từ Queensbridge.


Do đó, bản single đầu tiên – “Shook Ones, Pt. II” của album The Infamous quan trọng hơn bao giờ hết. Câu mở đầu của P trong bài “Yeah, to all the killers and a hundred dollar billers” như cú tát vào mặt người nghe để họ bừng tỉnh về một hình ảnh mới nghiêm túc và trưởng thành của bộ đôi Mobb Deep. Rồi đến khi P rap phần verse của anh, những hình ảnh bạo lực của đường phố đường vẽ sắc nét đến rợn người:

I got you stuck off the realness, we be the infamous / You heard of us, official Queensbridge murderers / The Mobb comes equipped for warfare, beware / Of my crime family who got 'nough shots to share / For all of those who wanna profile and pose / Rock you in your face, stab your brain with your nose bone

Khi mới lập bộ đôi để tập tành trở thành những rapper, Havoc thường là người đưa ra những ý tưởng chủ đề cho mỗi bài. Có những lúc Hav sẽ phác ra nội dung và giúp Prodigy viết lời. Trong album đầu tay Juvenile Hell, Hav là người hướng dẫn cho P về nhịp điệu của lời rap cũng như các từ lóng. Đến từ Hempstead, Long Island, P không có được cái background tuổi thơ lớn lên ở Queensbridge như Hav. Kỹ thuật của anh thì cũng tích góp được đôi chút, nhưng không là gì so với tiêu chuẩn mà những anh tài tại Bridge đã đặt ra, như Marley Marl, MC Shan, và đặc biệt kẻ cùng lứa – Nas.

Vì vậy có thể nói Havoc chính là người thày thứ ba!

Đọc đoạn lời này đi. Phải rap như thế này này”. Havoc sẽ dạy Prodigy phong cách rap của vùng Queensbridge cùng những từ lóng cần thiết.

Giữa những áp lực từ các rapper bên bờ Đông như Wu-Tang Clan, Biggie, và Nas - người được coi là đứa con vàng trong làng Hip Hop, với loạt khen ngợi từ các bậc tiền bối, sự ghen tị lẫn lo lắng đè nén lên vai của P và Hav. Khi mà Hav giờ đây chú tâm hơn vào làm nhạc, P phải quay sang dành thời gian hơn nghĩ về những ý tưởng cho các bài rap.

Cái hay trong cách tiếp cận làm nhạc của P và Hav là họ đều đặt ra mục tiêu làm ra sản phẩm cuối cùng phải thật ấn tượng sâu để người nghe liên tưởng và đồng cảm, chứ không phải để bắt chước tạo ra một tuyệt phẩm khác giống như Illmatic. Sự trấn tĩnh của họ được thể hiện qua chính những lời rap thẳng tưng, với giọng điệu vừa phải nhưng lời lẽ thì cực sáng tạo.

Đó là nhờ Prodigy đã học từ Havoc và tự rèn luyện thành một MC rap những ngôn từ đầy chắt lọc với những ý nghĩa sâu xa, vượt qua cả chính Hav. Khả năng sáng tác của P đến cảnh giới mà cảm xúc có thể khiến anh viết những câu chuyện, vẽ những hình ảnh trải trên nhiều khuông nhạc, dài hơn cả những phần verse của Havoc. P nắm chắc trong anh tư tưởng của những khuông nhạc chính (“lead bar”) có phần lời sắc lẹm, hằn sâu trí nhớ người nghe.


Với mỗi câu xuất sắc của Hav như “Real like an innocent child that turned killer” trong bài “Q.U. – Hectic” thì P sẽ có một loạt những câu rap “chết người” như:

- “But wildin' ain't the way to be livin' / You're only gonna end up bloody on the floor shiverin'” hay “I need to slow down, movin' through life at a high speed / Watchin' all the slow runners pass by me / I can see through you, due to, my Queens education / Speakin' on behalf of this drug-game nation / The Foundation / Queens nation” cũng trong bài “Q.U. – Hectic”

- “Every angle of the car was smoked out and tinted/ So we couldn't tell if the enemy was in it” trong bài “Trife Life”.

- “There’s a war goin’ on outside no man is safe from / You could run, but you can’t hide forever / From these streets that we done took / You walkin’ with your head down / Scared to look, you shook / ‘Cause ain’t no such things as halfway crooks” trong bài “Survival Of The Fittest”.

- “I'm lethal when I see you, there is no sequel” trong bài “Right Back At You”.

o “But then I pause, and ask god why? Did he put me on this earth just so I could die?” trong bài “Up North Trip”.

- “My gunshots’ll make you levitate / I’m only 19 but my mind is old / and when the things get for real my warm heart turns cold” trong bài “Shook Ones, Pt. II”.

Nội dung của các bài thì đều dựa trên những sự việc / sự kiện diễn ra xung quanh cuộc sống của Mobb Deep, như lá thư gửi người bạn trong tù để kể diễn biến của vụ án dựa trên câu chuyện có thật của người anh em của Hav (“Temperature’s Rising”), như hiện thực của vòng lặp ra tù vào tội của những người xung quanh họ (“Up North Trip”), như những mối nguy hiểm tiềm ẩn của việc giao du với cô nàng từ một băng nhóm khác (“Trife Life”), v.v. Những chủ đề này rất cụ thể và được kể bằng từ ngữ cùng tình tiết sống động, khiến cho những ai lớn lên tại khu Queensbridge hoặc những khu phố tội phạm đều có thể đồng cảm. Ý nghĩa của những câu chuyện đó cũng ảm đạm tăm tối như phần nhạc mà Havoc sản xuất, khiến cho những từ ngữ của Hav, và đặc biệt trong phần lời rap sắc xảo của P như được sống dậy và hiện lên trước mắt qua những thước phim.


Sau The Infamous, Prodigy vẫn thể hiện phong độ của anh, đặc biệt qua album Hell On Earth và cả album solo H.N.I.C (2000). Những ca từ như “I had the whole New York state aiming at your face / At the gate, bottom line off top soon as you came through / Shot through, don't even know the half of my crew” trong bài “Drop A Gem On ‘Em” ở album Hell…

hay “Nineteen seventy four, motherfucker I was born with pain / My moms and my pops pass it down to me / So don't talk to me about can I feel yours / 'Cause I ain't feeling you at all, your pain isn't pure / You crying 'cause you broke from the projects / That's not pain, that's emotions, you a bitch / I'm talking 'bout permanent, physical suffering / You know nothing about that / You just complain 'cause you stressed / N****, my pain's in the flesh” trong bài “You Can Never Feel My Pain” kể về cuộc chiến đấu với bệnh tật của P trong album H.N.I.C, thì chỉ càng chứng tỏ đẳng cấp của một MC có tài năng vô đối.

***

Nhìn lại, khi Mobb Deep bị dồn vào đường cùng để chứng tỏ khả năng của mình sau thất bại đầu đời, tài năng của Havoc trong sản xuất nhạc và Prodigy trong viết lời rap bỗng dưng được khai phá. Việc đổi vai giữa Hav và P vô tình giúp cho những người học trò có cơ hội tôi luyện và trở thành những cao thủ vượt qua chính người thày của mình (trừ trường hợp với “thày” Q-Tip). Thế nên, dù Mobb Deep có chậm chân đôi chút, họ vẫn kịp thời để lại cho Bờ Đông nói riêng và lịch sử Hip Hop nói chung những tuyệt phẩm ngang hàng cùng Illmatic của Nas hay Ready To Die của Biggie ngày đó.

Mỉa mai thay, việc đổi vai của P và Hav cũng là sự tình cờ phát sinh từ căn bệnh hồng cầu hình liềm của Prodigy, thứ vô tình “giúp" hai anh khám phá ra tài năng của mình để đạt tới đỉnh cao sự nghiệp, nhưng cũng lại là nguyên nhân dẫn đến cái chết của chính P ở tuổi 42.


Mọi chuyện xảy ra hẳn đều có lý do của nó!


RIP Albert "Prodigy" Johnson (20.06.2017)

Hẹn gặp lại!

Kunt

340 views

Recent Posts

See All
bottom of page