Đĩa DVD Live at the Olympia Paris của Sting là một trong những đĩa live album khiến tui choáng ngợp ngay từ nốt nhạc đầu tiên. Sting chưa bao giờ khiến cho khán giả của mình thất vọng với mức độ bùng nổ và trung thực trong từng màn trình diễn của mình. Từng cây chơi nhạc của Sting đều chơi với anh từ rất nhiều năm được và từng được anh lựa chọn kỹ càng, khiến cho và màn trình diễn của cả ban nhạc lớn với cả chục thành viên có thể phối hợp với nhau đầy uyển chuyển mà vẫn là một cỗ máy vận hành cực kỳ chặt chẽ.

Và rồi một cái bóng mảnh khảnh hiện ra sau giàn trống đã khiến tui phải chú ý. Đó rõ ràng không phải hình dáng đậm người của Vinnie Colaiuta lừng danh. Với một người lựa chọn bạn chơi nhạc cùng kỹ tính như Sting, ai là “kẻ lạ mặt” đã được Sting lựa chọn?
Câu trả lời có lẽ sẽ gây ngạc nhiên với những fan của prog Rock, nhưng có lẽ lại không quá ngạc nhiên với những người thu nhạc cùng những nghệ sĩ session. Đó là tay trống có gốc Punk Rock mang cái tên Josh Freese.
Xin đừng vội nhìn vào thể loại Punk Rock đi cùng Freese theo năm tháng mà vội đánh giá. Đến thời điểm này, Josh Freese đã tham gia chơi trống trong hơn 400 album, cũng như đi tour cùng những band cộm cán từ kiểu của The Offspring cho tới Guns N' Roses hay Nine Inch Nails. Không giống như đa số các nghệ sĩ thường chọn cho mình con đường hoặc chơi session trong phòng thu, hoặc đi lưu diễn đến rạc người, Josh Freese làm được hết(!?!!) Và sau đây là những thời khắc huy hoàng nhưng không nhiều người nhận ra có sự góp sức của anh.
1. Avril Lavigne – Under My Skin
Với tất cả sự tôn trọng với tài năng của cô gái này, tui cho rằng Avril Lavigne may mắn hơn tất cả những cô gái “nổi loạn” cùng thời ở chỗ, cô được đặt vào vị trí để thành công. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà những cái tên chơi nhạc trong khi ghi âm album của Lavigne đều thuộc hàng số má.
Album thứ hai của Lavigne, Under My Skin, có lẽ là cú đấm đầy chủ ý của hãng đĩa Arista – một kiểu đầu tư tất tay cho cô gái cưng của họ. Hãy nhìn vào những người chơi nhạc cho cô: Phil X chơi guitar, cô viết nhạc cùng Ben Moody (guitar của Evanescence). Và trên giàn trống là Josh Freese, người trước đó cũng góp mặt trong phân nửa album đầu tay Let Go của Lavigne.
Khi đã quyết tâm chọn con đường chơi nhạc ‘Punk’, có lẽ thứ dễ gây bất ngờ và kích thích với người nghe hơn cả sẽ là phần trống. Bởi khổ nỗi, phần guitar và bass chơi băm bổ trong 3 hay 4 gam dường như đã là thứ mặc định trong punk pop, trống vẫn luôn là phần có nhiều đất diễn hơn cả trong thứ âm nhạc nhanh và “thái độ” này. Mới không lâu trước đây bọn này vừa ca ngợi Travis Barker vì lý do đó, thì nay Josh Freese cũng là người không hề kém cạnh trong khoản này.
Đơn cử với track đầu tiên “Take Me Away”, nhịp điệu trong đoạn hát nghe tưởng chừng như đơn giản thì đến khi vào bridge, phần trống của Freese bỗng trở nên sôi động lạ thường, và hãy chờ xem, ngay trước khi vào điệp khúc, anh dồn trống trên mặt snare vào những phách thật lạ lùng.
Cũng bởi punk rock thường cố gắng chơi thật nhanh, thứ âm nhạc này cũng trở nên dễ đoán với người nghe bởi họ sẽ thường dồn trống ở đây, tăng tốc ở kia, và quan trọng hơn cả, mọi thứ nhịp điệu trong punk rock/pop thường không đi ra ngoài cái sự 1-2-3-4.
Đó là lý do tại sao những Travis Barker hay Josh Freese là những người đã tạo ra sự khác biệt đáng kể. Hãy nghe cả câu dồn trống cuối đoạn điệp khúc trong “Take Me Away”, cũng không vào đúng nhịp và nghe hối thúc một cách khác thường nhưng đầy chủ ý. Tự nhiên, với sự đóng góp của Josh Freese, âm nhạc của Avril Lavigne trở nên biến chuyển và tự nó làm cho nhạc của cô trở nên hấp dẫn hơn những thứ nhạc 3 4 hợp âm và pằng pằng từ đầu chí cuối của những đồng nghiệp xung quanh.
Thế nên hẳn không phải là sự trùng hợp khi những album tiếp theo của Avril Lavigne, phần guitar có thể là bất cứ ai, nhưng phần trống luôn được chọn mặt gửi vàng. Nếu Josh Freese không chơi hết cả album, đó có thể sẽ là Travis Barker hay Kenny Aronoff.
Còn nếu như có những khán giả còn nhớ đến Under My Skin như một album nghe hơi kiểu Evanescence, xin mời chuyển sang mục 3 sẽ rõ.
2. A Perfect Circle
Đây có lẽ là khoảng cách khá xa trong trí tưởng tượng của mọi người, tương đương với khoảng cách giữa punk rock và prog rock. Nhưng có lẽ lại khá gần với một người có thể chơi mọi thể loại như Josh Freese. Đúng vậy, anh là tay trống trong hơn 13 năm của A Perfect Circle, ban nhạc của ca sĩ cá tính Maynard James Keenan (Tool) và tay guitar Billy Howerdel. Josh Freese có vẻ là cái tên ít được nhắc đến trong ban nhạc chơi thứ nhạc ảo diệu này, dù rằng anh chơi trong 3 trên 4 album của band.
Hãy thử lấy “Weak And Powerless”, ca khúc có lẽ được biết đến nhiều nhất từ album Thirteen Step, ra làm ví dụ. Tiếng trống của Josh Freese đều đặn như một chiếc máy đánh nhịp với phần kick bass dậm liên tục trong đủ cả 8 nốt móc đơn. Quan trọng hơn, tiết tấu chơi giữa snare và tom của Josh Freese khớp một cách kỳ lạ với lối hát uể oải của Keenan, nghe dằn dứ ở trong lòng và có một sự căng thẳng khó hiểu. Để tới lúc vừa hết đoạn đoạn verse, Freese bỗng gọi trống bằng tiếng tom đơn giản để rồi cả band vỡ òa ra với phần điệp khúc.
Hay như “Outsider”, với phần nhịp chuyển qua chuyển lại giữa 6/8 và 4/4 đầy tài tình. Ai nghĩ rằng đây là phần beat được chơi bởi một người thích Punk?
Dĩ nhiên Manyard Keenan không phải tên tuổi lớn duy nhất của những dòng nhạc “chính thống”. Josh Freese còn góp mặt trong album cùng tên của Slash năm 2010, hay The Slip (2008) cùng NIN.
Và có ai đã từng tưởng tượng, Josh Freese đã từng chơi trống cho cả Guns N' Roses và tham gia viết nhạc và thu “mẫu” phần trống cho album Chinese Democracy? Tiếc là Axl Rose ẩm ương sau đó đã bắt tay trống sau này là Brian Mantia thu lại toàn bộ phần của Josh Freese.
3. Ai chơi trống cho Good Charlotte, Evanescence, hay Puddle of Mudd?
Hẳn tất cả chúng ta đều bị ấn tượng bởi nhịp điệu cực nẩy và lôi cuốn với câu riff guitar đơn giản chỉ có 2 nốt trong “Life Style of the Rich and Famous”, câu vào trống tức ngực sau phần piano du dương của “My Immortal”, hay tiếng trống đậm dần như những giọt bùn bắn lên người nặng trĩu trong “Blurry”. Điểm chung của tất cả những ca khúc hit này là phần nhạc không quá phức tạp, nhưng phần beat dường như đánh thẳng vào sự tập trung của người nghe với tiếng trống đều đặn không cầu kỳ nhưng đầy ẩn ý. Cả 3 ca khúc này đều đã từng khiến tui phải giật mình ngoảnh lại khi lần đầu được nghe những ca khúc này.
Chưa hết, còn một điểm chung thú vị nữa của 3 ca khúc này: tay trống trong video clip của Good Charlotte, Evanescence, hay Puddle of Mudd đều nhìn không có gì đặc biệt với chiêu trò của họ. Vì họ có thu âm bài này đâu.
Tiếng trống một hai của “Life Style of the Rich and Famous” hóa ra không đơn giản, vì thỉnh thoảng, Josh Freese lại thả một nốt “ghost” trên snare hoặc kick ở những chỗ không theo quy luật nào cả. Nó khiến bài hát trở nên khó lường, dù phần phần guitar của Benji Madden hầu như không phải làm gì cả. Và đến cuối đoạn verse thứ 2, ngay khi Benji Madden vuốt cần đàn rèn rẹt, Josh Freese nghe hiệu lệnh chuyển beat với câu dồn “ba-ba-đùm-ba-đa-ba-đùm”, và rồi âm nhạc của Good Charlotte như vỡ òa ra đầy hào hứng.
Hay như câu dồn vào đoạn guitar phơ tè của “My Immortal”. Nó quá đơn giản chỉ là “đáp-bụp-bụp-bụp-đáp” – dường như ai cũng có thể chơi được – nhưng màu sắc của tiếng trống quá bạo lực và lập tức đẩy bắn sự chú ý của người nghe sang chiều ngược lại, trước khi tay guitar Ben Moody kịp tạo ra dấu ấn của riêng mình với cú vuốt guitar ngoạn mục và cả band cùng hòa âm. Không biết có bao người đã phải tua đi tua lại đoạn nhạc ngoạn mục này trong những năm hoàng kim của nó.
Có lẽ 3 album kể trên (The Young and The Hopeless cùng Good Charlotte, Fallen cùng Evanescence, và Come Clean cùng Puddle of Mudd) đã là quá đủ để phô bày tài năng của Freese, và tui thiết nghĩ sẽ không cần thiết phải nhắc them về những album như Breakaway (2004) cùng Kelly Clarkson, Breakout (2010) cùng Miley Cyrus, One of the Boys (2008) cùng Katy Perry, hay Daughtry (2006) cùng Chris Daughtry.
4. Gã chơi live điên cuồng
Weezer. Offspring. Paramore. Guns N' Roses. Nine Inch Nails. Đây mới là những nơi Josh Freese thực sự tạo ra sự khác biệt với những nghệ sĩ session khác. Lẽ thường, các nghệ sĩ session là những người quen tỏa sáng trong phòng thu và thường chấp nhận nhường ánh sáng của sự chú ý cho những thành viên của ban nhạc, dù đôi khi họ còn thu thay cả phần của thành viên ban nhạc.
Ngay đến cả tay trống lừng danh như Vinnie Colaiuta, người từng thu nhạc và biểu diễn cùng Frank Zappa khó tính, cũng đã từng phải bỏ ngang việc đi lưu diễn sau chuyển lưu diễn dài gần 2 năm cùng Sting thời những năm 90s.
Nhưng khi có ai gọi, Josh Freese sẽ đáp lời. Người đàn ông này đã từng bỏ ngang sự nghiệp tuyệt vời cùng A Perfect Circle khi ban nhạc cứ treo ở đó để chờ Maynyard James Keenan thu nhạc cùng Tool. Anh sẵn sàng đi tour cùng Offspring hay Paramore là những ban nhạc ít tiếng tăm hơn, để có thể tiếp tục giữ mình bận rộn.
Hãy nhìn màn trình diễn “March of the Pigs” của Josh Freese sau đây cùng NIN – hóa ra gã mảnh khảnh này có khả năng nện trống uy lực kinh người.
5. Sting
Dĩ nhiên không thể không nhắc đến công trình đẹp đẽ nhất của Josh Freese, đó là làm việc cùng Sting. Dù rằng cũng có khối fan của Sting không thể tưởng tượng ra cảnh nghệ sĩ kỹ tính của mình mang theo một tay trống chơi Punk đi lưu diễn và thu nhạc suốt nửa sau của thập kỷ 2010s tới giờ.
Bởi vì Josh Freese có thể làm tất cả. Khi cần phải chơi sâu lắng hay tròn trịa (“Shape of My Heart”, khi cần phải chơi nhạc tưng như reggae (“Englishman in New York”), nhạc mang âm hưởng châu Phi (“Desert Rose”), và cả những bản nhạc khó chơi với toàn nhịp 9/8 (như “I Hung My Head”).
Josh Freese cũng kịp ghi dấu ấn trong viết nhạc cùng Sting trong album gần nhất, 57th and 9th, với những ca khúc rất đã như “50,000”, hay ca khúc ngập tràn ánh nắng châu Âu như “One Fine Day”. Chợt nhớ ra từ đầu giờ toàn đi khen người khác mà quên mất rằng chính Josh Freese cũng dẫn dắt Punk band của chính anh, The Vandals, suốt hơn 30 năm nay, quá lâu để khiến mọi người quên khuấy mất họ chính là một phần trong công cuộc phục hung Punk Rock (hay tạo ra Punk Pop) từ những Punk band tới từ California cùng những Green Day, NOFX, Offspring, và sau này là Blink 182.
Hẹn gặp lại!
Kai