top of page

Yngwie Malmsteen: Duy nhất một tuyệt chiêu

Updated: May 5, 2024

Có vị tiền bối đã từng nói, nếu như mày chỉ có một tuyệt chiêu, tốt nhất hãy luyện chiêu nào có thể kết liễu đối thủ. Các ông thấy siêu anh hùng không, anh nào ngon cũng toàn có siêu năng lực ngon như khỏe hay chạy nhanh; chứ cái đám biết tàng hình hay nói chuyện với cá xem ra toàn bị liệt vào nhóm vô dụng. Cầm thủ, cũng như các môn phái võ công khác, có lẽ trước giờ cũng chia sẻ không ít tư tưởng tới từ võ thuật như thế này. Và Yngwie Malmsteen là một minh chứng điển hình của một đại cầm thủ chỉ có một tuyệt chiêu, đương nhiên là vào hạng ngon trong các loại siêu năng lực: NHANH.


Nhưng trước hết, tui có 3 điều cần giãi bày sau đây để đỡ mất công tranh luận trước khi đi tiếp:


1. Không bình luận về những gì Malmsteen nói. Vì mỗi lần lão phát biểu một khác.

2. Malmsteen không nhất thiết phải solo cho bài hát. Lão solo cho bản thân.

3. Khi nghe bài có Malmsteen chơi, tất cả mọi người đều đoán được mô típ câu solo sẽ tuôn ra như thế nào và thường là không có bất ngờ.


***

Quay trở lại những ngày đầu năm 1982, nhà sản xuất Mike Varney, lúc ấy còn rất trẻ và vẫn đang trong giai đoạn đầu xây dựng hãng đĩa Shrapnel, hãng đĩa chuyên ưu ái cho các cầm thủ, bỗng nhân được bưu kiện gửi từ Stockholm, Thụy Điển.


“Chào Mike, đây là Yngwie Malmsteen chơi Fender Strat với phím lõm, cần dày, amply Vox, và pick up dimarzo. Mình thích Uli Roth, Al  Dimeola, và Ritchie Blackmore. Gửi cậu băng demo nghe chơi”.


Trong số các bản demo mà Malmsteen gởi, có cả những track sau này lọt vào album của Malmsteen như “Black Star” hay “Now Your Ships Are Burnt”. Các track này đều là nhạc instrumental và thậm chí nhiều track trong số đó Malmsteen còn tự chơi cả trống.


Âm hưởng độc đáo và đặc biệt là tốc độ chơi guitar khó tin của Malmsteen khiến Mike Varney nhớ lại chỉ mới trước đấy vài tuần, ông chủ tiệm đĩa quen cũng tình cờ đưa cho Varney cuốn băng demo của một tay guitar người Thụy Điển do một cựu sinh viên đi du học trao đổi mang về. Chính là tay guitar độc đáo đó. Không thể coi thường vai trò phát hiện tài năng của các du học sinh đâu nhé. Ban nhạc Roxette chính là một ví dụ khác, cũng từ Thụy Điển!

Bài hát thuở hàn vi giàu âm hưởng Uli Jon Roth


Tài năng của Malmsteen đúng kiểu mà Mike Varney đang cần để khuếch trương thanh thế hãng đĩa. Nhưng vấn đề lớn nhất, là làm sao lôi được Malmsteen sang Mỹ và lo được giấy phép làm việc. Không có visa làm việc thì cũng chả ai cho thu âm.


Nhưng trước mắt, từ Thụy Điển, Yngwie Malmsteen nhận được điện thoại tới tấp. Marty Friedman muốn lập band chơi guitar chung. Night Rangers cũng đánh tiếng muốn có lão. Thế giới như đảo ngược với Yngwie khi lần đầu tiên tài năng của lão đã được công nhận. Trước đó ở Stockholm quê nhà của mình, Yngwie Malmsteen bị coi là khùng khi chơi thứ nhạc chả giống ai, lại còn đánh quá nhanh và quá ồn.


***

Yngwie Malmsteen, tên cúng cơm là Lars Johan Yngve Lannerbäck, vốn không bị nhà trường nhận xét là ngu dù đã không thèm đi học từ năm lớp 8, nhưng bản tánh lỳ thì không ai bằng. Năm 13 tuổi, Yngwie phát hiện ra Deep Purple và lập tức khoái Ritchie Blackmore. Từ đó Yngwie chỉ thích tập đàn để đánh nhanh được như Ritchie. Gã mang cả guitar vào lớp để tập và chẳng cần quan tâm đến chuyện gì khác. Yngwie cũng chả có bạn, nên gã có tập đàn 8 đến 10 tiếng một ngày và đến lúc nhà trường chịu hết nổi, Yngwie bỏ học luôn.


Bước chuyển biến tiếp theo là vào năm 1978, khi tham gia ban nhạc đầu tiên của mình, Yngwie được cậu bạn đưa cho nghe album Taken by Force (có nơi nói là Virgin Killer) của Scorpions với phần guitar khác lạ của một người tên là Uli Jon Roth, người có thể chơi guitar như một tay violin chính hiệu (trước đó Yngwie chỉ biết mỗi Rainbow). Yngwie Malmsteen quyết tâm phải chơi nhanh hơn cả Ritchie Blackmore, nhưng cũng phải có âm thanh trong trẻo như violin tựa như Uli Jon Roth. Trong thời gian này, Yngwie đã bắt đầu có đủ tiền để mua cây đàn nhái Fender Stratocaster cho riêng mình và tình cờ khi đem đàn đi sửa action, được một người thợ khuyên nên khoét phím lõm cho đàn và lập tức kết với kiểu này luôn.


Chắc chỉ có bản tánh bướng và lỳ của Yngwie là không bao giờ thay đổi theo thời gian. Khi band của lão lần đầu có người gọi đến thu âm và sau khi nghe cả đám đánh 4-5 bài, đã gợi ý bảo hát tiếng Anh đi thì lão kêu tao chỉ hát tiếng Thụy Điển. Mãi sau khi đã ấm chân ở Mỹ, Malmsteen mới hiểu tại sao người ta hay hát tiếng Anh.


***

Mike Varney tính ghép Yngwie Malmsteen với một ban nhạc còn đang manh nha lúc ấy với thủ lãnh kiêm ca sĩ chính Ron Keel dưới cái tên Steeler, vì cho rằng phong cách quái dị của Keel rất cần một anh hùng guitar để đối trọng – công thức chiến thắng điển hình thời bấy giờ. Ron Keel bốc điện thoại gọi cho Malmsteen và cho lão nghe demo của Steeler. Yngwie nghe demo và bảo thích ngay. Tiếc rằng Ron Keel đã quá non để nhận ra đây thực ra chỉ là bước đệm cho Malmsteen. Thấy không, lão đâu có ngu.


Thế là Yngwie Malmsteen bán hết cả nhà cửa và sang Mỹ bằng visa du lịch vì nước Mỹ vốn không chịu cấp visa làm việc cho lão. Lão dọn tới ở chung với cả band Steeler trong 1 căn nhà dơ dáy ở Los Angeles, và lập tức làm cho các đồng đội trong band ngạc nhiên với sự chăm chỉ tập đàn của mình. Việc đầu tiên khi Yngwie thức dậy là thò tay chơi guitar khi vẫn nằm trên giường. Sau màn khởi động khoảng 30 phút, Yngwie sẽ đi nấu ăn sáng. Tay trái lão vẫn solo, còn tay phải lão sẽ đổ sữa, chiên trứng, kẹp bánh mì, và ăn.


Buổi tập đầu tiên với Yngwie thì chẳng khác gì ông người lớn ra đá banh với đám trẻ nít. Yngwie Malmsteen múa guitar và solo từ đoạn intro, đoạn verse, điệp khúc và tới tận cuối bài không cần quan tâm ai chơi gì. Đã vậy, cả đám còn bị Yngwie Malmsteen chọc quê là mấy gã amateur. Yngwie Malmsteen bị sa thải ngay ngày thứ 2 ở LA.


Bị đá ra đường, không xu dính túi, chỉ có cây đàn. Tệ hơn là Yngwie đâu có được đi làm thuê vì ở đây theo visa du lịch mà. Yngwie Malmsteen chỉ còn mỗi một nước quay lại xin lỗi và năn nỉ Ron Keel. Thấy không, lão đâu có ngu!


Show đầu tiên mà Steeler chơi ở Los Angeles chỉ có cỡ 30 khán giả. Show thứ hai của Steeler là ở quán bar Troubadour, khán giả bỗng tự nhiên đông nghẹt tới cả ngàn. Chỉ trong vòng 1 tuần, tất cả mọi người ở Los Angeles đều ùn ùn kéo đến xem tay guitar tới từ Thụy Điển. Nhưng Steeler thì vẫn nghèo như con mèo và cả đám không có gì ăn. Yngwie phải rất tiết kiệm tiền đi show và thậm chí phải điện về nhà xin tiền mẹ.


Ảnh hưởng từ sự chăm chỉ tập luyện của Yngwie, cả đám Steeler cũng dần sẵn sàng để thu album đầu tay với Mike Varney. Trong lúc đó, Ron Keel và vợ của anh vẫn tiếp tục chạy đôn chạy đáo xin visa lao động cho Yngwie Malmsteen. Lý do họ đưa ra đơn giản là vì không có ai ở Mỹ có năng lực chơi nhạc như cái gã từ Thụy Điển này.


Cuối cùng Yngwie cũng có visa thật và chính thức được phép thu nhạc. Để ăn mừng, Yngwie solo khắp nơi trong các bài nhạc từ đoạn dạo tới điệp khúc. Đứng trong bàn điều khiển, cách tốt nhất để đỡ phải cãi nhau với lão là khi nào Mike Varney không muốn thì anh sẽ cắt volume tiếng guitar của Yngwie lại.


Hãy thử nghe “Cold Day In Hell” trong album đầu tay của Steeler, khi cả Yngwie và Ron Keel đều solo guitar. Có thể thấy rõ đoạn solo của Ron là đoạn sau và Ron thì solo cho bài hát, còn Yngwie chỉ solo cho lão. Yngwie thậm chí lúc nào cũng chực nhảy vào bảng điều khiển và tăng âm lượng guitar của lão trong bản mix và làm Mike và các kỹ sư tức điên sau khi mất bao công để tinh chỉnh được balance giữa các nhạc cụ.

Lạc quẻ trong Steeler với Ron Keel


Thu xong album, Yngwie Malmsteen cũng bỏ nhóm, còn Ron Keel sau đó và tàn dư của Steeler đã lập ra ban nhạc Keel nổi danh sau này ở phong trào Glam Metal.


***

Ca sĩ Graham Bonnet, người trước đó từng hát cho cả Rainbow của Ritchie Blackmore và M.S.G của Michael Schenker, gọi Yngwie đến audition cho ban nhạc Alcatrazz của anh vì nghĩ Yngwie Malmsteen chính là Ritchie Blackmoore đệ nhị.


Khi Yngwie bắt đầu chơi cho Alcatrazz, quản lý của band là Andy Truman cũng trở thành quản lý của Yngwie Malmsteen. Cả đám cùng nhau thu album đầu tay của Alcatrazz, No Parole for Rock n Roll (1983), ngon nghẻ với Yngwie Malmsteen góp bút trong mấy bản hit “Island in the Sun” và “Hiroshima Mon Amur”. Mọi chuyện bắt đầu diễn ra như mơ cho Yngwie Malmsteen khi trong các show diễn của Alcatrazz, lão được chơi cả những bản nhạc của Graham Bonnet từ thời Rainbow như “Since You Been Gone” hay “All Night Long”, cũng như nhạc instrumental của riêng gã như bản “Evil Eye”.

Yngwie Malmsteen đã không trở thành Ritchie Blackmoore đệ nhị


Cho tới một show nọ, tay bass Jimmy Waldo và thủ lãnh Graham Bonnet tính đổi vai sang chơi guitar khi ban nhạc tới phần encore. Yngwie Malmsteen tức hộc máu với kế hoạch này và thậm chí còn không cho phép Graham Bonnet đặt amply bên cạnh amp của gã trên sân khấu. Dĩ nhiên Graham Bonnet cho Malmsteen biết ai mới là sếp của Alcatrazz; và thế là Yngwie bỏ sân khấu ngay khi phần guitar của Graham và Jimmy bắt đầu. Sau show, Graham Bonnet quyết định gọi Yngwie ra để sa thải, trong khi Yngwie vẫn khăn khăng bật lại “tao nghỉ”. Cứng như trứng!


Nhưng quản lý Andy Truman lúc này không muốn bỏ Yngwie vì cho rằng mọi người đến show vì Yngwie, nên cố thuyết phục Graham Bonnet nhịn Yngwie tới hết tour trong khi cả band đã bí mật phỏng vấn tay guitar thay thế cho Yngwie mang cái tên Steve Vai.


***

1984. Rời Alcatrazz, Yngwie Malmsteen bắt đầu tập trung vào album solo đầu tay của mình. Vốn không thiếu tham vọng và sự tự tin, Yngwie Malmsteen tính tự thu hết tất cả các nhạc cụ vì đây vốn dự tính là album Instrumental (cả đĩa chỉ có 2 bài có hát). Nhưng rồi Yngwie cũng phải nhờ tới ông bạn Jens Johansson tài năng chơi keyboard, và tay trống Barriemore Barlow từ Jethro Tull theo lời giới thiệu của Andy Truman. Jeff Scott Soto, ca sĩ lúc ấy mới có 18 tuổi người gốc Puerto Rico được nhận vào hát vì có thể hát tất cả những nốt cao chói vói trong bản nhạc của Yngwie. Ấy thế mà lúc thu xong phần hát rồi, Yngwie vẫn nghĩ là mình sẽ hát trong album còn Jeff Scott Soto chỉ là người đi hát lúc diễn live. Tự tin thế là cùng.

"Far Beyond The Sun" sẽ ra sao nếu không có Jens Johansson chơi keyboard?


Một điều nữa mà Yngwie không biết, là đĩa của lão chỉ được phát hành ở Nhật. Nhưng dù sao thì điều này đã gây ra một cơn sốt nho nhỏ khi người Mỹ sẵn sàng xếp hàng để mua đĩa imported với cái giá cắt cổ (cỡ 70 đô thời đó). Với 40 ngàn đĩa bán được (đa số là imported), hãng Polydor quyết định album tiếp theo, Marching Out, sẽ là album đầu tiên ở Mỹ.


Nhưng Yngwie vẫn tiếp tục làm nhạc theo cách đầy ích kỷ và sáng tác nhạc với lời lẽ không có nhiều sức nặng mà chỉ chăm chăm solo guitar tùm lum và không thèm nghe bất cứ lời góp ý của ai. Lão cũng tự chơi phần bass trong phòng thu, tự sản xuất, và chỉ nhường vai trò chơi nhạc ở phần keyboard và trống cho hai anh em nhà Johansson, Jens Anders, những người chắc chắn là chơi xịn sò hơn Yngwie trong hai nhạc cụ này (Jens Johansson sau chơi cho Dio Stratovarius). Mỗi album lão lại đổi ca sĩ và trong suốt cả sự nghiệp của mình, không có ca sĩ nào có thể góp mặt nhiều hơn 2 album với Yngwie Malmsteen, kể cả khi đó có là Joe Lynn Turner lừng danh.


Đúng vậy, Odyssey (1988), với sự tham gia của Joe Lynn, hẳn là album hay nhất của Yngwie Malmsteen.


***

Mọi sự bắt đầu khá triển vọng khi lần này Yngwie Malmsteen mời được tay bass kỳ cựu Bob Daisley tham gia. Thế là phần bass có lẽ sẽ bớt nhàm chán hơn cách chơi của Yngwie giống như một cây guitar thứ hai ở dải trầm. Quan trọng hơn, Joe Lynn Turner, cựu ca sĩ của Rainbow (và là người thứ hai từ Rainbow) cũng đồng ý tham gia ban nhạc của Yngwie Malmsteen. Với Joe Lynn, anh tham gia vì đây chẳng khác gì một superband.


Nhưng rồi Yngwie Malmsteen, kẻ vốn ưa tốc độ và sự khoe mẽ, đã lao chiếc xe Jaguar của mình vào gốc cây khi vào cua quá gấp. Lão không thắt dây an toàn, và cái sọ của Yngwie thậm chí đập vỡ cả cái vô lăng chiếc xe. Ông bạn Peter Roth ngồi bên cạnh thì bị nứt sọ và vỡ hàm răng. Hai lão được máy bay trực thăng chở thẳng vào khoa hồi sức tích cực trong bệnh viện. Vấn đề là Yngwie Malmsteen không có bảo hiểm, còn quản lý của lão, Andy Truman thì không muốn trả tiền viện phí vì quá tốn kém.


Lúc này đây thì Andy Truman mới lộ diện là kẻ đểu cáng lâu nay chỉ bòn rút tiền kiếm được từ Yngwie (lão này cũng đã bị Alcatrazz sa thải). Không tin lời Andy rằng Yngwie chỉ bị tai nạn chút xíu, hãng đĩa Polydor nhờ Joe Lynn Turner vào bệnh viện và tá hỏa vì tình trạng của Yngwie Malmsteen. Món đầu tư hốt bạc của hãng đĩa nằm trong phòng hồi sức tích cực với cái đầu to bè dị thường vì cái sọ bị bổ làm đôi, và bệnh viện thì đang chuẩn bị đưa Yngwie tới bệnh viện xã hội vì chả ai chịu trả tiền. Nhờ sự can thiệp của Joe Lynn Turner, Polydor đã chịu viện phí và bệnh viện đã ra tay cứu được Yngwie Malmsteen sau đó. Khi tỉnh lại, Yngwie Malmsteen thậm chí không thể cử động được tay trái và tay phải yếu tới mức không thể cầm được miếng gảy.

Joe Lynn Turner, kẻ lặng thầm cứu lấy mạng sống và sự nghiệp của Yngwie


Nhưng có lẽ đây là lúc sự lỳ lợm và bướng bỉnh của Yngwie Malmsteen đã phát huy theo chiều hướng tích cự, khi lão luyện tập và trở lại một cách phi thường để ghi âm album thứ tư, Odyssey. Album này, ngoài phần guitar solo tốc độ thường thấy thì phần hát của Joe Lynn Turner cũng cân bằng hơn với phần nhạc. Tiếng keyboard của Jens Johansson cũng trở thành một âm thanh đặc trưng khi có lẽ lần đầu tiên trong lịch sự nhạc Rock nặng từ sau thời của Jon Lord, cây keyboard đã tiến lên một bước và solo ngang hàng như một cây guitar thứ hai đối ẩm cùng Yngwie Malmsteen và có lẽ đã trở thành cảm hứng cho rất nhiều ban nhạc chơi guitar/keyboard sau này từ Bắc Âu. Những ca khúc nhu “Rising Force” hay “Heaven Tonight” đều trở thành hit. Ca khúc cuối “Faster than Speed of Light” thì là một sự tưởng niệm lại sự kiện với chiếc Jaguar xấu số kia.


Đội hình này của Yngwie Malmsteen (trừ Bob Daisley) sau đó còn tham gia trình diễn ở Moscow và Leningrad tận nước Nga xa xôi, xứ sở mà hầu như không có một rock band nào dám tới trình diễn. Cùng với Scorpions, ban nhạc của Yngwie Malmsteen đã dám phá bỏ cái “tiền lệ” đó và có một tour diễn để đời với 20 show đều bán hết sạch vé, mặc dù họ phải tính đủ cách để làm sao kiếm được tiền. Cũng bởi đồng rúp kiếm được từ Nga lúc ấy hãy còn khá vô dụng trên thị trường, band của Yngwie Malmsteen đã nghĩ ra cách thu âm và quay video show diễn của họ ở Leningrad để sau bán kiếm tiền.


Nhưng rồi đội hình trong mơ ấy cũng không tồn tại được lâu. Jens Johansson sau đó bỏ sang chơi cho Dio vì thù lao tốt hơn, còn Joe Lynn Turner cũng không còn mặn mà làm việc chung với tay guitar lúc này đã bắt đầu nghiện đủ thứ chất kích thích và hầu như không lúc nào đủ tỉnh táo. Còn gì vui nữa khi lão coi các đồng đội trong band là những người làm thuê cho lão và động tý là dọa thay thế bất cứ lúc nào.


Lão tự mãn tới mức đăng đàn chê hết thảy các tay virtuoso lúc bấy giờ cũng chơi theo kiểu Neo Classical như Vinnie Moore, Paul Gilbert, hay Tony Macalpine chỉ là lũ bắt chước. Thậm chí khi được hỏi về Jeff Beck, lão còn bảo “chưa từng nghe”.


***

Tui đã từng nghĩ Yngwie Malmsteen là độc nhất vô nhị với cái sự Neo Classical của lão. Cho tới khi Vinnie Moore và Tony Macalpine cho tui thấy họ cũng thừa sức làm được những thứ đó, thậm chí nhiều hơn, khi âm nhạc của họ không chỉ có tốc độ hay các loại scale kỳ bí. Âm nhạc của họ có đầy những khoảng trống dành cho các nhạc cụ khác, những khoảng lặng để cảm nhận, hay những cú nhéo điếng người; những thứ mà các câu guitar thường là bận bịu của Yngwie Malmsteen thường không để ý tới. Chưa kể, những tay guitar như Vinnie Moore, Tony Macalpine luôn có cả những câu riff, những thứ mà Malmsteen thường không hay thể hiện mà chỉ trông chờ vào tài nghệ của tay keyboard chơi cùng nhu Jens Johansson.


Nhưng có lẽ cũng nhờ sự phát triển của thị trường âm nhạc instrumental, mà khởi nguồn là các album guitar instrumental từ lò của Mike Varney, thứ âm nhạc giàu guitar solo của Yngwie Malmsteen dần được trân trọng hơn. Và khi lão góp mặt trong những show diễn chỉ toàn guitar như G3 (cùng Joe Satriani và Steve Vai) hay Generation Axe (cùng Zakk Wylde, Tosin Abasi, Steve Vai, và Nuno Bettencourt), Yngwie Malmsteen lại xuất hiện thực sự sống động trong một thế giới đề cao guitar solo – thứ mà có lẽ lão là người đầu tiên đã trở nên nổi bật hơn cả ca sĩ chính.

Malmsteen có lẽ chỉ cần tung hoành trên sân khấu với cây guitar


Nhưng rồi khi ra khỏi thế giới đó, có lẽ đa số người nghe vẫn thường tìm tới một ban nhạc với một ca sĩ mà họ biết; mà trong trường hợp này với band của Yngwie Malmsteen, họ sẽ không thể nhận ra được danh tính của người ca sĩ kia. Liệu mấy người thậm chí còn để ý trong album mới nhất của lão, Parabellum (2021), lão cũng tự hát luôn sau khi chả còn mời được ai hát cùng.


Thực ra có khi lão cũng chả quan tâm khán giả để ý gì hay không. Đấy có khi mới là tuyệt chiêu.


Hẹn gặp lại!


Kai & Kcid

617 views

Recent Posts

See All

© 2018 by EmoodziK

bottom of page