Tản mạn (ep. 21): Từ Massive Attack tới Portishead & Tricky, không ai ưa cái mác “Trip Hop”
- K.K.N.
- Jun 15
- 12 min read
Nằm ở Tây Nam nước Anh, Bristol là nơi được biết đến với cảng buôn bán nô lệ trong suốt hàng trăm năm. Vì lẽ đó, thành phố này mang đậm chất văn hóa và sắc tộc của cộng đồng người da màu. Trong khí trời u sầu và ảm đạm, các quán rượu lậu là nơi người dân tìm đến âm nhạc và giải tỏa từ những chất kích thích phong phú và đa dạng không kém con người nơi đây. Với diện tích không quá lớn, chỉ có một vài địa điểm chính ở Bristol để những con người đến từ nhiều văn hóa cùng tụ lại giao lưu. Và cũng từ đây, thứ âm nhạc đầy sáng tạo và khác biệt của vùng đất Bristol được nhen nhóm và phát triển.

Ở nửa đầu thập niên 80, khi The Wild Bunch - nhóm những DJ và kỹ sư âm thanh cùng chia sẻ đam mê tạo ra sân chơi nhạc cho các buổi tiệc và hộp đêm – được lập ra, họ đã nhanh chóng thu hút sự tham gia của vô vàn các nghệ sĩ khác, từ những người vẽ graffiti cho tới những MC / rapper. Tận dụng dàn âm thanh được chế tác tuyệt hảo, cùng kho tàng đĩa nhạc đa thể loại, Punk có, Hip Hop có, Reggae có, New Romantics có, Goths và Metal cũng có luôn; người Bristol đã biến hóa ra các nhạc phẩm đi trước thời đại – một triết lý mà các nghệ sĩ vùng đất này thấm nhuần khi họ tạo ra âm nhạc.
Và rồi tới thập niên 90, khi nhánh Britpop tạo làn sóng lớn trên truyền thông toàn nước Anh, ở Bristol, một dòng chảy khác bắt đầu gây chú ý với sức ảnh hưởng lớn không kém mang tên “Trip Hop”. Không phải “Bristpop”, cụm từ “Trip Hop” lại được phát minh bởi nhà báo Andy Pemberton nhằm dán cái mác cho kiểu nhạc rất riêng và đặc trưng ở Bristol này. Chữ “Hop” không chỉ là sự liên tưởng tới lối làm nhạc của các DJ thuộc dòng Hip Hop chuyên tạo ra các con beat từ những bản sample, mà cụm “Trip Hop” còn là tổ hợp của đa thể loại các nhánh Punk, Funk, Soul, Blues, Psychedelia và thậm chí nhạc từ các bộ phim. Nhưng tựu chung, Trip Hop là những bài nhạc có tiết tấu chậm vừa phải, kết hợp giữa Hip Hop và yếu tố nhạc điện tử để tạo nên không gian nhạc kỳ ảo, đưa người nghe “đi cảnh” qua từng đoạn nhạc.
Trip Hop vì thế là cái mác mô tả vừa đúng mà cũng lại vừa sai một dòng chảy âm nhạc rất khác biệt của nước Anh này. Đúng vì những ban nhạc, nghệ sĩ tiên phong của dòng nhạc này như Massive Attack, Portishead và Tricky đều có những điểm chung trong việc chú trọng ở việc kiến tạo ra một “bầu không gian âm nhạc” rộng, những âm thanh lạo xạo của đầu kim chạm trên bề mặt những đĩa than đang quay đều, tiếng dải trầm của âm bass, tiếng trống và một số nhạc cụ được lồng ghép từ các bản sample, các giọng hát nữ đa phần được đưa lên làm chủ đạo và đều mang tới cảm xúc bâng khuâng cùng màu sắc man mác buồn. Còn sai vì cái nhãn mác đó đánh mất đi tính độc đáo của mỗi ban nhạc / nghệ sĩ, cũng như đánh đồng họ với những nhạc phẩm “bình dân”, chưa kể đến cách “người tiêu dùng” thường bật các bài nhạc Trip Hop vào những hoàn cảnh không đúng với ý đồ của “nhà sản xuất”.
“Bọn tôi từng rất ghét cụm từ này. Như chúng tôi nhận định, nhạc của Massive Attack hoàn toàn mang nét riêng, nên để đám báo chí đặt nó vào trong một chiếc hộp và dán một cái mác lên đó thì chả khác gì họ đang bảo là ‘Ồ phải rồi, bọn này biết tỏng tụi bay làm nhạc kiểu gì’. Thực tế là phần lớn bọn tôi còn chả biết từ đâu mà bọn tôi làm ra nhạc như này. Chúng tôi tạo ra thứ nhạc chậm rãi, có tính không gian để cho người nghe có cảm nhận bằng đầu, chứ không phải cho đôi chân để nhảy theo. Không có nhạc gì giống như vậy trước đó cả. Không có gì chậm rãi mà lại trí tuệ như này”.
Đó là lời chia sẻ của Daddy G – thành viên của nhóm nhạc Massive Attack. Chính G cũng là người có công đóng góp kho tàng âm nhạc đa dạng cho anh em trong nhóm The Wild Bunch từ những ngày đầu tiên. Chính thế nên không có gì ngạc nhiên khi Massive Attack và album đầu tay Blue Lines (1991) được coi là album đầu tiên của dòng nhạc Trip Hop. Vâng xin mạn phép tôi vẫn phải dùng cụm từ này cho mục đích của bài viết, dù biết Daddy G và Massive Attack không ưa cái tên này gắn cho nhạc của họ.

Được lập ra bởi 2 DJ là Daddy G và Mushroom cùng 2 rapper Tricky và 3D vào năm 1988, họ đều biết đến nhau khi giao lưu trong nhóm The Wild Bunch. Album Blue Lines vì thế được tạo bởi nhóm những kẻ cùng chí hướng và sức sáng tạo dồi dào nhất của Bristol. Blue Lines được ví như sản phẩm chắt lọc Hip Hop của nước Mỹ qua lăng kính tinh tế của người Anh Quốc để làm nên nhạc phẩm soulful được kết hợp không chỉ yếu tố breakbeat, sample và rap của nhạc Hip Hop, mà còn mang chất liệu nhạc Reggae, Electronic, Dub và dĩ nhiên Soul. Sự khác biệt lớn nhất với hai chất liệu chính Hip Hop và Electronic trong Blue Lines chính là tempo chậm rãi vừa phải, để lại nhiều khoảng trống cho các thành viên của Massive Attack đặt vào các câu nhạc, câu hát và lời rap. Mặc cho nhịp điệu chầm chậm đó, phần trống đảo nhịp phách và những hợp âm jazzy thừa sức níu giữ đôi tai người nghe để đặt họ vào giữa không gian nhạc mê hoặc đó.
Track nhạc đầu tiên trong đĩa - “Safe From Harm” được dẫn dắt với các nốt bass trầm đục đối lập với tiếng synth vang vọng ở trên cao, tạo ra khoảng trống ở giữa cho giọng hát soulful của Shara Nelson bay bổng. Phần rap với chất giọng trầm của thành viên 3D xuất hiện như một nguyên liệu riêng biệt để nhấn mạnh cách người Anh chế tác nhạc Hip Hop của người Mỹ như thế nào. Đó là lối rap đặc sệt với chất giọng Anh Quốc, không cần lên gân, cùng sự cân bằng qua nét nhạc và giọng nữ mềm mại. Để hiểu rõ nhất cách Massive Attack xử lý chất liệu Hip Hop, bài “Five Man Army” là ví dụ xuất sắc khi các thành viên khéo léo sắp đặt những đoạn rap của Willie Wee, Tricky, Daddy G và 3D khi mỗi người có một chất giọng rap riêng, khi trầm khi bổng, khi khàn khi trong. Hơn cả, những khoảnh khắc xuất hiện một câu nhạc từ phần sample của một nhạc cụ, hoặc biến đổi nhịp điệu đậm chất Reggae mới thấy âm nhạc của Massive Attack không đơn giản chút nào.
Chuyện mà Daddy G phản đối bị quy chụp vào một phong cách nhạc dưới cái mác “Trip Hop” cũng là dễ hiểu khi anh và các thành viên Massive Attack là những nghệ sĩ đi đầu trong phong trào thể nghiệm làm mới âm nhạc, ở thời kỳ mà cứ vài ngày, những con người Bristol đó lại khám phá ra một công thức chế biến mới. Chính thế mà ngay với Massive Attack, ở các album sau, đặc biệt là Mezzanine (1998), họ vẫn không ngừng thay đổi khi đưa thêm cả chất liệu Post-Punk và Industrial vào nhạc của mình.
“Chúng tôi rất thích những ban nhạc nghệ sĩ như Nirvana, Polly Harvey, những ca sĩ nhạc sĩ sáng tác đầy chân thực về bản thân họ. Vậy nên sẽ rất tuyệt nếu mọi người có thể nghe những câu chuyện của Beth Gibbons. Nhưng nếu có ai đó lại tổ chức tiệc và bật nhạc của bọn tôi lên thì tôi chỉ muốn vác theo chiếc gậy bóng chày và phá nát buổi tiệc của họ. Nếu ai đó bảo rằng họ nghe nhạc của chúng tôi trong mọi hoàn cảnh thì tôi sẽ thẳng thừng mà nói rằng đó là thứ tồi tệ nhất phát ra từ mồm họ. Tôi sẽ khuyên người đó đi về nhà, mở nhạc của chúng tôi lên và vặn volume to nhất có thể để nghe và đắm chìm trong đó”.
Đó là lời của Geoff Barrow – thành viên ban nhạc Portishead khi nhắc tới chuyện người nghe nhạc thường bật nhạc của Portishead nói riêng, hay nhạc Trip Hop nói chung làm nhạc nền cho các buổi tiệc, tại nhà hàng, quán bar hay thậm chí trong lúc các cặp đôi đang “xếp hình”. Lý do cho “cách sử dụng” âm nhạc này của nhiều người là vì Trip Hop có dải trầm rõ nét, không gian nhạc man mác huyền ảo như bàn tay mềm mại đang vuốt ve đôi tai, đâm ra những yếu tố khác như giọng hát và nội dung ca từ không được chú ý tới quá nhiều. Đây cũng là nguồn cơn cho việc căm ghét cụm từ “Trip Hop” của Barrow lẫn ban nhạc Portishead.

Xuất hiện muộn hơn chút so với những người mở lối như Massive Attack và DJ Shadow, ban nhạc Portishead vẫn kịp được xếp vào hàng những người tiên phong cho Trip Hop khi mà album đầu tay Dummy (1994) của họ đã giúp đưa cái tên Trip Hop tới thị trường số đông. Được lập ra bởi ba thành viên Beth Gibbons (ca sĩ), Geoff Barrow (phụ trách nhiều nhạc cụ) và Adrian Utley (guitar), họ thổi một luồng gió mới cho âm nhạc đến từ Bristol qua tuyệt phẩm Dummy. Cũng là không gian âm nhạc đặc trưng của Trip Hop với tiếng âm thanh lạo xạo của chiếc đĩa than và những hợp âm jazzy tương tự như Massive Attack, nhưng sự khác biệt nhất là cách Portishead đưa màu nhạc phim của những năm 60 và 70, cùng với phần sample không phải chỉ mỗi đi mượn từ các nhạc phẩm cũ, mà còn được “làm giả” bằng cách “chặt nhỏ” từ chính các bản thu mà các thành viên tự chơi và ghi âm. Trong bài “Sour Times”, ban nhạc sample đoạn nhạc từ bài “Danube Incident” của Lalo Schifrin từ album More Mission: Impossible với âm thanh khêu gợi của tiếng đàn cimbalom làm chủ đạo. Khi Portishead tăng tốc đoạn nhạc đó lên, họ cố tình để phần phối khí của Schifrin cao lên gần nửa cung, tạo ra sự chơi vơi khi ghép với các nhạc cụ khác, mang đúng khí chất tuning phô của nhạc Hip Hop. Những âm thanh hòa âm của tiếng guitar, đàn Hammond, và dàn nhạc trong “Sour Times” khơi gợi ngay lập tức tới cả màu nhạc của những dòng phim điệp viên 007 đầy kỳ bí. Ở bài “Numb” mang bầu không khí ma quái, dù không mượn đến sample của một nghệ sĩ nào cả, các thành viên trong Portishead vẫn tái tạo quá trình ghép nhạc bằng chính thu âm gốc của họ. Khi ra những bản thu trên đĩa than, họ còn làm cũ tiếng đi bằng cách đặt chúng lên sàn nhà và dẫm lên như thể đang lướt ván skateboard.
Nhưng trên cả là giọng hát ma mị của Beth Gibbons cùng những phần lời đầy cảm xúc chân thực mang đến một sắc thái rất riêng cho Portishead. Thử tưởng tượng những câu hát đầy tâm trạng như “'Cause the child rose as light / Tried to reveal what I could feel / And this loneliness / It just won't leave me alone” (bài “Numb”) hay “From this time, unchained / We're all looking at a different picture / Through this new frame of mind / A thousand flowers could bloom / Move over and give us some room” (bài “Glory Box”) qua giọng hát như sắp vỡ vụn của Gibbons thì bảo sao người đồng đội Geoff Barrow phải cảm thấy không thoải mái khi người ta bật nhạc Portishead tại những buổi tiệc.
“Nếu bạn nghe Trip Hop… nói sao nhỉ… nếu bạn thực sự nghe thứ được gọi là Trip Hop, thì nhạc của tôi chả giống một tẹo nào. Các bạn có thể tìm thấy sự ảnh hưởng ở trong đó, và tôi cũng nghe thấy những nét tương đồng nào đó, nhưng đó hoàn toàn là thứ nhạc khác hẳn. Và dù thế nào nhạc của tôi vẫn là nhạc của tôi.”

Những lời của Tricky cũng lại thẳng thừng chối bỏ cái tên Trip Hop, và thậm chí anh cũng ghét chính cái danh người ta đặt cho anh là “Bố già của nhạc Trip Hop”. Lý do cho sự ghét bỏ không chỉ của Tricky hay những cái tên vừa nhắc tới ở trên đối với cụm từ “Trip Hop” còn bởi cả sự ảnh hưởng của thứ nhạc đến từ Bristol này đã lan tỏa tới vô vàn các sản phẩm đại trà khác, những bài nhạc được sản xuất qua loa, được chế biến sơ sài, làm cho sự dày công sáng tạo của những Massive Attack, Portishead và Tricky bỗng dưng bị đánh đồng và mất giá trị.
Vì nếu đem so sánh nhạc phẩm solo của Tricky sau khi tách khỏi Massive Attack với nhạc của chính nhóm này, người nghe mới thấy ngỡ ngàng vì sự khác biệt và phong phú của những “nồi lẩu” đa dạng về cách chế biến.
Tại sao tôi nhắc tới Tricky là người thứ 3 trong bài viết này? Đó là bởi bên cạnh đĩa Blue Lines của Massive Attack và Dummy của Portishead, album Maxinquaye (1995) đầu tay trong sự nghiệp solo của Tricky được coi là bộ 3 tuyệt phẩm của Trip Hop. Trước khi nghe Maxinquaye, dù không nghi ngại về chất lượng của nó, tôi lại không kỳ vọng sẽ tìm thấy sự mới mẻ trong âm nhạc của một thành viên từng tham gia nhóm Massive Attack như Tricky. Trái hẳn với suy nghĩ đó, đây quả thực là một album xuất sắc, vô cùng độc đáo.
Với sự trợ giúp của producer Mark Saunders, Tricky nhắm tới Dub Music cùng các bản sample được điều chỉnh xào nấu lại để làm ra thứ nhạc groovy hay đến mê hoặc. Thế nhưng để làm được điều đó, Saunders được Tricky thách thức với những sample vứt la liệt trên sàn nhà mà anh này lựa chọn để lồng ghép lại. Không có ý niệm gì về cao độ, nốt nhạc hay nhịp điệu, những yêu cầu tưởng chừng như vô lý của Tricky ghi bảo Saunders tạo dựng các con beat từ hai bản sample khác hẳn nhau về tông giọng, hay lệch nhau về nhịp phách lại mang tới các kết quả xuất sắc không ngờ. Chính thế khi nghe album này, người nghe sẽ bắt gặp các âm thanh cá tính và kích thích đôi tai.
Vẫn đưa vào các giọng hát nữ chính, bài “Overcome” có tiếng trống tom rền vang như sấm thi thoảng xuất hiện như các câu fill. Cũng như vậy, bài “Pumpkin” có âm sắc trống live gõ trên các mặt trống có cao độ khác nhau, được làm nổi bật bằng tiếng guitar điện rè đặc quấy nhiễu không gian đầy chủ ý. Rồi như “Black Steel” là âm thanh cymbal kết hợp guitar điện thổi hồn vào thứ nhạc điện tử được phối vô cùng sống động này. Có thể nói, album Maxinquaye của Tricky có hơi hướng nhạc Rock rõ nét, cùng các âm sắc nhạc cụ cá tính không những tách biệt nhạc phẩm này của anh khỏi nhạc phẩm của Massive Attack để không ai có thể đem so sánh Tricky với những đồng đội cũ, mà còn chứng tỏ sức sáng tạo của những nghệ sĩ đến từ Bristol thực sự vô tận.
Bên cạnh những Massive Attack, Portishead và Tricky, bức tranh Bristol và dòng chảy Trip Hop còn được nuôi dưỡng bởi cả DJ Shadow, U.N.C.L.E., Morcheeba hay Howie B. Thứ âm nhạc mà những người này tạo nên được ví như âm nhạc được khai quật dưới lớp sỏi đá, vang lên sau những cơn mưa lớn như trút nước, mang thứ màu sắc man mác buồn của vùng đất Bristol.
Cũng bởi sự đa dạng trong thể loại và tiềm năng sáng tạo vô tận của Trip Hop, mặc dù bị lép vế trước làn sóng Britpop vào những năm 90, sức ảnh hưởng của Trip Hop chính ra lại lan tỏa rộng khắp sang cả bên kia Đại Tây Dương; bền vững và trường tồn cho đến tận bây giờ. Không chỉ những nghệ sĩ đồng lứa như Björk, Radiohead hay Damon Albarn cùng ban nhạc ảo Gorillaz của anh đã có nhiều sáng tác mang đậm chất Trip Hop, còn có cả James Blakes, Garbage, the xx, Foals, Lana Del Rey, FKA Twigs, The Weeknd, Billie Eilish, hay Lorde, ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng phong cách nhạc mê hoặc và kỳ bí này.
Do vậy dù những con người Bristol tiên phong trong sáng tạo âm nhạc của những năm 90 có ghét cụm từ “Trip Hop” này tới đâu, không thể phủ nhận rằng cái mác âm nhạc đó lại được những nghệ sĩ khác nghiền ngẫm để tiếp tục phát triển thứ nhạc cho riêng họ. Và chừng nào những nghệ sĩ đó tiếp tục tiếp cận Trip Hop bằng những thể nghiệm vượt ra khỏi khuôn mẫu của các thể loại nhạc, thì họ đã nắm đúng tinh thần sáng tạo nghệ thuật của thành phố Bristol.
Hẹn gặp lại!
Kink