top of page

Tears For Fears: Nhạc Pop nhưng không lỗi thời

Updated: 5 days ago

Thế là cuộc sống của chúng ta cuối cùng cũng trở nên dễ đoán trước. Nếu như kẹt xe là thứ cuối cùng có vẻ khó lường và thường làm ta bất ngờ, thì nay ta đã có tàu điện để đi làm. Đúng là cái tàu điện mà tôi với bạn đều biết là cái món gì đấy. Thế là hàng ngày tôi chỉ việc thong dong bước lên tàu, chụp cái tai nghe vào đầu như bao người và cứ thế cuộc sống sẽ trở nên dễ đoán và lặp lại một cách nhàm chán hơn bao giờ hết. Tôi sẽ chỉ việc nhìn tất thảy mọi người xung quanh, và bật track “Mad World” của Tears for Fears và cười khẩy: tất cả những người xung quanh đều trông thật buồn chán và nhét mình sau đôi tai nghe, thi thoảng ném những ánh nhìn một cách dè chừng, và rồi lại lắc lư vô tận theo nhịp toa tàu phải không? Ủa mà biết đâu, cũng khối người trong đám hành khách kia cũng đang nghe “Mad World” và cũng nhìn tôi cười khẩy?


Nhưng đúng là nếu như có một track nhạc có thể nghe lặp đi lặp lại cả ngày không chán trong nhiều năm, thì với tôi đó là “Mad World”.


All around me are familiar faces / Worn out places, worn out faces

Bright and early for the daily races /Going nowhere, going nowhere

Their tears are filling up their glasses / No expression, no expression

Hide my head, I wanna drown my sorrow / No tomorrow, no tomorrow


Tôi nghĩ không chỉ có những kẻ già đầu như tôi mới thích Tears For Fears (TFF), ngay cả những nghệ sĩ Hip Hop sau này như Kanye West hay The Weeknd cũng tìm tòi lấy nhạc của TFF làm samples. Nhạc của TFF nghe dường như không có tuổi và càng ngày càng trở nên hợp lý với thời gian, cũng bởi chất lượng nhạc được sản xuất kỹ lưỡng, phần beat nổi trội, và lời lẽ khá nhiều ý nghĩa với những triết lý mà cặp đôi Roland Orzabal và Curt Smith tự ngộ ra từ những cuốn sách của triết gia Arthur Janov.


Nghĩ tới bộ đôi của TFF, tôi tin rằng nhiều người sẽ liên tưởng tới một thứ âm nhạc pop na ná như Pet Shop Boys, Duran Duran, hay Wham. Đúng là TFF mang đầy âm thanh synth pop điển hình của thập niên 80s, nhưng âm nhạc của họ quá ư là nhiều màu sắc và phong cách đa dạng mặc dù trong cả sự nghiệp TFF chỉ ra 7 album (5 nếu tính TFF có đủ cặp đôi Orzabal và Smith vì 2 có 2 cái phát hành khi Smith tạm nghỉ).


Hãy thử cùng EmoodziK điểm lại những điều đặc biệt khiến Tears For Fears có thể bán được hơn ba chục triệu album và không ít cái No 1 trong suốt 40 năm sự nghiệp của họ dù chỉ với một discography khá khiêm nhường.


1. Âm thanh của nhạc 80s – Songs from the Big Chair


Thành phố Bath, nước Anh, là nơi mà Roland Orzabal và Curt Smith gặp nhau. Roland Jaime Orzabal de la Quintana, vốn là người gốc lai Pháp, Tây Ban Nha và Argentina, nhưng lại sinh ra và lớn lên ở nước Anh. Gia đình Roland chuyển tới Bath khi anh 11 tuổi và cũng là khi bố mẹ anh không còn sống với nhau nữa bởi chứng sang chấn tâm lý của ông bố sau Thế chiến II, dẫn đến những lần bạo hành không bao giờ ngừng trong suốt tuổi thơ của Orzabal.


Roland Orzabal bắt đầu chơi guitar từ 9 tuổi mỗi khi gia đình có chuyện. Chẳng biết có phải nhờ thế không mà Roland tới cấp 3 đã chơi guitar cực giỏi, tới mức có thể đi dạy guitar cho bạn cùng trường. Orzabal quen và kết cậu bạn Curt Smith vì tay này cũng có tuổi thơ khá nhiều biến động, và được cái cả hai đều chơi guitar rồi cùng tìm đến âm nhạc để giải thoát.


Ban nhạc đầu tiên của Roland và Curt là Graduate, vốn bắt đầu là ban nhạc của Roland nhưng thiếu một tay bass. Roland đề nghị ông bạn Curt Smith chuyển sang chơi bass, và thế là từ đấy hai anh này chơi một lèo với nhau tới khi lập ra Tears For Fears.


Sự tồn tại ngắn ngủi của Graduate, một ban nhạc 5 người nhưng chỉ có 2 người viết nhạc chính, có lẽ đã đem tới cho Roland Orzabal vô khối những bài học đắt giá. Tears For Fears được thành lập với bộ khung chỉ có hai người xuyên suốt, và tất cả những đóng góp còn lại đều có thể được tìm thấy từ các nghệ sĩ session. Chưa kể, khi chỉ có hai người (đôi khi thêm ông nhà sản xuất là ba), các quyết định của họ về viết nhạc và sản xuất sẽ dễ dàng hơn với một ban nhạc đông người, mà trong trường hợp của The Graduate, có tới ba ông không tham gia viết nhạc.


Và có lẽ lịch sử âm nhạc đã chứng kiến một ban nhạc gần như là duy nhất có đủ sự tự do để thay đổi chính bản thân mình trong từng album nhạc, từ một cặp đôi chơi Shoegazing pha với Electro và Synth; tới một ban nhạc chơi với gần chục cây và tạo ra những âm thanh hoành tráng trong các bản Prog Rock đặc trưng của thập niên này.


Vốn chịu ảnh hưởng từ Peter Gabriel và album solo thứ ba của anh này, cách sử dụng synthesizer và drum machine. Quả thực, sự xuất hiện của Synth Pop ở thời đó như một luồng gió mát lành trong âm nhạc với thứ âm thanh như tới từ tương lai và những cấu trúc bài kiểu Rock N Roll truyền thống dường như không phải là tiêu chuẩn bắt buộc nữa. Đó là lý do ở thời thịnh của thứ nhạc này, một ban nhạc thường chỉ cần có hai người với một front man có thể hát và một người chơi keyboard phía sau, thứ khiến cho rất nhiều người nhầm tưởng TFF cũng là một ban nhạc đơn giản như vậy.  


Nhưng điều độc chiêu ở TFF có lẽ tới từ việc họ quen được với nhà sản xuất kiêm tay keyboard Ian Stanley, người sở hữu một loạt những bộ drum machine thời thượng nhất thời đó. Roland Orzabal có dịp làm việc với Ian Stanley ngay từ album đầu, Hurting, của TFF và đã biến việc lập trình trên drum machine và tạo ra những bản phối khó quên trong album thứ hai, Songs from the Big Chair của họ. Album này đạt No 2 ở UK và No 1 ở Mỹ, thậm chí còn kịp đá văng Thriller của Michael Jackson ra khỏi vị trí số 1.


8 bài trong album này là 8 bộ mặt dáng vẻ khác nhau và chắc hẳn không ai có thể phủ nhận sự độc đáo và điển hình từ những phần trống bự và khác biệt của những “Shout”, “Everybody Wants to Rule the World”, “Broken”, hay “Heart over Heels”.


“Everybody Wants to Rule the World” là một ví dụ điển hình về sự cầu kỳ trong nhịp phách, khi bài này chơi ở nhịp 4/4 nhưng mỗi nhịp lại chơi với chùm 3 để trở thành 12/4. Từ đó, phần trống chơi như ở 2 lần nhịp 6/4 và khiến cho bản nhạc ở nhịp 4 thông thường bỗng nghe thật lạ lẫm.


Và mặc dù sử dụng rất nhiều drum machine để sáng tác, TFF vẫn luôn xen lẫn với việc sử dụng các tay trống session trong bản thu thật của những “Shout” hay “Everybody Wants to Rule the World” để tạo ra những cú đập thật mạnh và độ “cảm” từ con người từ những những tay trống session cự phách nhất như Jerry Marrota và những album sau này là Manu Katche (đều là những tay trống ưa thích của Peter Gabriel).


2. Âm nhạc luôn hợp thời – Tipping Point


Trong suốt sự nghiệp 40 năm của TFF, có một điều không thể phủ nhận là âm nhạc của họ luôn xuất hiện ở khắp mọi nơi mà không hề bị lạc điệu. Đó có thể là những bản hát lại dành cho các bộ phim (như “Mad World” hát lại bởi Gary Jules trong phim Donnie Darko, hay “Everybody Wants to Rule the World” bởi Lorde trong phim The Hunger Games), cũng có thể là những bản nhạc mới sử dụng nhạc của TFF làm samples (như  Kanye West sử dụng “Memories Fades” cho “Coldest Winter”, hay The Weeknd sử dụng “Pale Shelter” trong bản “Secret”), và cả những bản nhạc trở thành hit thêm một lần nữa như “Shout” với P.O.D – một ban nhạc Nu Metal.


Một bí quyết khiến nhạc của TFF trở nên trường tồn như vậy, theo tôi, chính là từ việc TFF cũng chả ngại gì đi “mượn” nhạc của người khác, kể cả đó có là một chiếc beat hay một câu đàn tới từ thập kỷ trước. Chả đâu xa, mô típ của “Shout” chính được vay mượn từ “Seen and Not Seen” của Talking Heads, nhưng khác biệt là ở chỗ Orzabal còn nhét thêm đoạn guitar solo vào khiến cho bài hát trở nên thực sự mạnh mẽ và khác bọt. Còn tiếng synth bass trong “Mad World” thì được mượn từ “Girls on Film” của Duran Duran, nhưng bỗng trở nên khác biệt khi có phần beat lạ tai. Chả thế mà không chỉ có album thứ ba của Peter Gabriel, Remain In Light (1980) của Talking Heads Scary Monster (1980) của David Bowie cũng là những album thường được bộ đôi Orzabal và Smith nhắc tới.


Nhưng điểm độc đáo nhất với cái sự hợp thời trong âm nhạc của TFF, ấy là khi họ ra album Tipping Point (2022). Sự chấp nhận với thứ âm nhạc không lỗi thời của TFF từ thập niên 80s cũng đồng nghĩa với việc khán giả cũng không nhất thiết phải trông đợi các album của TFF sau này. Album Everybody Loves a Happy Ending (2004) tưởng chừng như đã là một album kết hoàn hảo cho sự nghiệp của họ và đón chào Curt Smith trở lại band sau nhiều năm, thì đùng một cái, TFF ra album Tipping Point sau tận 18 năm chỉ có đi lưu diễn. Tipping Point với tôi thậm chí còn hay hơn cả Happy Ending với thứ âm thanh TFF cực đặc trưng nhưng được trình diễn bằng âm thanh của thời hiện đại.


Có thể lấy chính ca khúc tựa đề “Tipping Point” làm ví dụ, với phần beat tựa tựa như “Rules the World” nhưng pha trộn với tiếng piano phá cách theo kiểu “Head over Heels”. Những lời lẽ kiểu như “Life is crazy and then it all turns to dust” trong bài này cũng khiến các fan cuồng của TFF được gợi nhớ lại những câu chữ sâu sắc khiến đám thanh niên bị hút chặt với những triết lý trong nhạc của TFF, thứ có lẽ khiến họ khác biệt hoàn toàn so với nhạc Pop thông thường.


3. Lời lẽ cực “deep” so với nhạc Pop thông thường – Hurting


Nhạc Pop vốn bản thân nó không ưa sự quá cầu kỳ trong lời lẽ. Nhưng trong khi xuất hiện như một ban nhạc Synth Pop, TFF lại đem tới những phần lời lẽ viết ra sâu sắc và nhiều ý nghĩa lớp lang. Chẳng cần nhìn đâu xa với “Mad World”, Orzabal đã mô tả một cuộc sống đầy nhàm chán và bế tắc ngay trước mắt mình mà thậm chí khối kẻ còn ngẫm ra được cả những gì đang xảy ra ở thời hiện tại.


Tôi còn nhớ trước đây khi tôi nghe The Offspring hát rằng “Cruelest dream, reality” trong “The Kids Aren’t Alright”, tôi đã lập tức liên tưởng tới “The dreams in which I'm dying are the best I've ever had” của TFF. Một triết lý nghe thật ngộ về giấc mơ, nhưng lại thật thấm thía khi ta tỉnh ngủ phải không?


Orzabal và Smith không bao giờ giấu diếm sự ảnh hưởng từ nhà triết gia Arthur Janov, nhất là cuốn sách Prisoners of Pain của ông này. Ý tưởng từ album Hurting cũng đến từ  ý tưởng là trẻ con thì thường tự vẽ ra quái vật hay ác mộng để đối phó với nỗi buồn – và Hurting thì thậm chí có nguyên 1 cái bìa đĩa là hình đứa bé đang ngồi ôm đầu, thứ khiến TFF gặp một chút rắc rối khi muốn vào thị trường Mỹ khó tính.


Nhưng nếu như sự cầu kỳ trong lời lẽ là thứ không phải ai cũng dễ nhận ra, thì những bản nhạc được xây dựng công phu trong các album của TFF chắc hẳn là thứ đã khiến cho khán giả của TFF luôn ngày được mở rộng.


4. Sản xuất ngon và kỹ - The Seeds of Love


Nói về khoản cầu kỳ này thì chắc không ai bằng TFF. Nếu như một album cần 8 tháng hay thậm chí 2 năm như trong trường hợp của The Seeds of Love, họ sẽ dành ra 2 năm để làm nó mà không chịu áp lực từ hãng đĩa hay bất cứ ai.


Album The Seeds of Love (1989), dù không ở mức độ thành công như Big Chair nhưng cũng kịp vơ được cái no 1 ở UK bởi chất lượng âm nhạc cầu kỳ của nọ. Vốn luôn mong phải phát triển thứ âm thanh của TFF từ sau album Big Chair, sự cầu toàn đã khiến cho Orzabal và Smith mất quá trời thời gian để làm ra album mới của họ. Thậm chí, bộ đôi này sẵn sàng để cho Oleta Adams, một nữ ca sĩ hát ở một phòng trà ở Kansas City mà Orzabal đặc biệt có cảm tình và tin chắc rằng sẽ thay đổi được âm thanh của TFF. Có lẽ đây cũng là một điểm khiến TFF khác biệt với tất cả các ban nhạc khác, khi sẵn sàng để một thành viên mới toe tham gia trong cả một album chỉ để phục vụ ý đồ của họ, dù không nhất thiết sau này họ cần phải giữ thành viên đó nữa.


Điểm đặc biệt nữa của album này là nó được sản xuất bởi chính Orzabal, người vốn nổi tiếng cầu toàn nhưng trước đó hầu như chưa có kinh nghiệp sản xuất gì. Nhưng chính cái sự cầu toàn đó cuối cùng lại trở thành sự độc tài và dẫn tới việc Curt Smith hầu như không có mấy đóng góp trong album này trừ phần chắp bút và hát chính trong bài “The Seeds of Love”. Cộng với những trục trặc trong hôn nhân của mình, Curt Smith quyết định rời bỏ TFF ngay sau khi tour diễn cho album kết thúc.


Và thế là Roland Orzabal một mình lèo lái con thuyền TFF trong suốt thập niên 90s với hai album được phát hành. Nhưng xin không nhắc tới trong bài viết này.


5. Kết thúc có hậu – Everybody Loves a Happy Ending


Tua nhanh tới thời điểm những năm 2000s, sự tái hợp của bộ đôi Roland Orzabal và Curt Smith có lẽ không nhận được nhiều sự chú ý trong giới âm nhạc trừ các fan trung thành của TFF. Như một cặp tình nhân vốn chia sẻ nhiều nhân duyên trước đó nhưng phải chờ tới lúc trải qua rất nhiều thăng trầm mới gặp lại được nhau, Orzabal và Smith bỗng có thêm những cảm hứng thật dồi dào để tạo ra thêm những nhạc phẩm mới toanh và đại diện hẳn cho một thập niên mới dưới cái tên Tears For Fears. Tựa đề của album nghe như một câu bông đùa dành cho các fan của họ, nhưng rốt cục lại như đánh dấu một sự khởi đầu mới cho đôi bạn lâu năm này.


Có lẽ đến thời điểm này, Curt Smith đã không còn quá lăn tăn về việc Roland Orzabal luôn át vía anh trong việc viết nhạc và sản xuất cho các album của TFF nữa, vì rõ ràng những gì xuất hiện trong các album của TFF khi vắng Smith vẫn luôn mang âm thanh của TFF (và khác với các album solo của Orzabal). Còn về phần Orzabal, anh cũng thừa biết một mình mình không thể cân hết các bài hát của TFF, nhất là những bài chỉ có giọng hát tuyệt đẹp của Curt Smith mới có thể lột tả hết ý đồ mà Orzabal tính viết ra.


Không khó để nhận ra điểm đặc trưng của album này là TFF một lần nữa lại “mượn” đồ từ những thứ âm nhạc kinh điển – mà lần này không ai khác chính là The Beatles vĩ đại. “Everybody Loves a Happy Ending”, “Closest Thing to Heaven”, “Call Me Mellow”, hay “Who Killed Tangerine” đều phảng phất những màu sắc giai điệu của Paul McCartney và tiếng trống mô phỏng lại cái sự tung tẩy của Ringo Starr.


Còn một lý do nữa không thể không nhắc tới khiến tôi luôn giữ kỹ các album của TFF bên mình, ấy là tôi có thể mở nhạc của TFF ở bất cứ đâu từ những buổi tiệc ngoài trời cho tới những lần gặp gỡ nhỏ bé tại nhà. Đó có lẽ cũng là nhờ sự đa dạng trong âm nhạc, tính kế thừa, và chất lượng sản xuất miễn chê của bộ đôi này.


Thế nên riết rồi tôi vẫn không biết nên đặt Tears For Fears vào ngành Pop hay ngành Prog.


Hẹn gặp lại!


Kcid

© 2018 by EmoodziK

bottom of page